Quy định kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của cá nhân theo Bộ luật dân sự 2015
Quy trình giải quyết vụ án dân sự là một chuỗi các quy trình kéo dài từ khi Tòa án thụ lý giải quyết đến khi dừng việc giải quyết vụ án dân sự bằng một bản án, quyết định cụ thể của Tòa án. Trong quá trình này, có thể xảy ra trường hợp đương sự là cá nhân chết nhưng sự kiện đó không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể trong quan hệ tố tụng dân sự. Vì vậy, Tòa án phải ra quyết định tác động đến quá trình tố tụng dân sự, nhằm bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích của đương sự, kể cả những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng. Vậy, pháp luật quy định như thế nào về kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo BLDS, những vướng mắt, bất cập nào đang tồn động đối với chế định này? Mời quý bạn đọc cùng theo dõi bài viết sau đây của Luật 3S!
I. CƠ SỞ PHÁP LÝ
– Bộ luật dân sự 2015
II. QUY ĐỊNH CHUNG VỀ KẾ THỪA QUYỀN, NGHĨA VỤ TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN THEO BLDS 2015
“Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” (khoản 1 Điều 68 BTTDS năm 2015).
Có thể hiểu, đương sự trong vụ án dân sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Khi tham gia vào quá trình tố tụng dân sự, các đương sự có quyền định đoạt quyền lợi của mình. Vậy nếu đương sự đang tham gia tố tụng mà chết thì xử lý như thế nào?
Căn cứ theo Điều 74 BLTTDS 2015 quy định: “1. Trường hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng.”
Có thể hiểu một cách khái quát, tất cả quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự được chủ thể kế thừa tiếp nối và thực hiện, người kế thừa tố tụng đó không nhân danh chính mình mà nhân danh đương sự đã chết (đối với đương sự là cá nhân).
Cụ thể, tại khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định người thừa kế theo pháp luật bao gồm:
(i) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
(ii) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
(iii) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”
Lưu ý một số trường hợp như sau:
– Trường hợp nếu đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà chưa có cá nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo điểm a khoản 1 Điều 214 BLTTDS 2015 : “Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó”.
Trường hợp này thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
– Nếu xác định được người thừa kế tham gia tố tụng thì Tòa án ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án được quy định tại Điều 216 BLTTDS 2015: “Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày lý do tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại Điều 214 của Bộ luật này không còn thì Tòa án phải ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự ….”. Sau đó, Tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.
– Trường hợp có căn cứ xác định nguyên đơn đã chết không có người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng thì Thẩm phán ban hành Quyết định đình chỉ vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đã chết theo điểm a khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015:“Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế”.
III. ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VÀO THỰC TIỄN
Thực tiễn cho thấy, trong quá trình giải quyết vụ án, việc xem xét kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 74 BLTTDS 2015 vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc, như trường hợp cụ thể sau:
Ông A và bà B là hai vợ chồng có hai con là ông C và ông D. Ông A và bà B có cho con là ông C một phần đất. Sau đó, giữa hai bên phát sinh mâu thuẫn nên ông A có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất với ông C. Theo đơn khởi kiện, Tòa án xác định ông A là nguyên đơn và ông C là bị đơn. Vấn đề đặt ra là trong quá trình giải quyết vụ án, ông A chết. Vậy sau khi ông A chết, thì ai là người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông A, cụ thể, có xác định ông C tham gia tố tụng với tư cách người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông A hay không?
Theo như tình huống trên: Có thể thấy khi ông A đang trong quá trình tham gia tố tụng mà ông A chết. Theo đó, nếu căn cứ theo điều 74 BLTTDS 2015, Tòa án sẽ xác định những người thừa kế của ông A là: bà B, ông D và ông C vào tham gia tố tụng với tư cách là những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của Ông A.
Lúc này, Ông C (đang trong tư cách là bị đơn) sẽ được xác định với 2 tư cách tham gia tố tụng là bị đơn và người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của nguyên đơn ông A (Bên nguyên đơn). Đối với 02 tư cách tham gia tố tụng của ông C thì ông C lại có quan điểm trái ngược nhau, do quyền và lợi ích hợp pháp giữa 02 tư cách tố tụng của ông C đối lập với nhau.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 87 BLTTDS năm 2015 quy định những trường hợp không được làm người đại diện như sau:
“1. Những người sau đây không được làm người đại diện theo pháp luật:
a) Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với người được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện
b) Nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ việc.”.
Như vậy, đối chiếu với quy định trên, nếu trong cùng một vụ việc mà đương sự được xác định thêm tư cách tham gia tố tụng mới mà quyền và lợi ích hợp pháp của tư cách tham gia tố tụng mới đối lập với tư cách tư cách tham gia tố tụng ban đầu thì họ không được xem xét thêm tư cách tham gia tố tụng mới. Cụ thể, trường hợp của ông C chỉ nên xác định một tư cách tố tụng là bị đơn, và chỉ xác định người kế thừa quyền và lợi ích hợp pháp của ông A trong trườn hợp này gồm bà B và ông D.
Mặc dù ông C cũng là một trong các đồng thừa kế của ông A, và căn cứ theo điều 74 BLTTDS 2015, thì ông C hoàn toàn có thể tham gia với tư cách là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông A. Tuy nhiên, điều này sẽ làm phát sinh mâu thuẩn với khoản 1 Điều 87 BLTTDS 2015 nêu trên. Mặc khác, nếu ông C được kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông A để thay mặt ông A tiếp tục tham gia tố tụng theo điều 74 BLTTDS 2015, thì điều này sẽ làm thay đổi ý chí khởi kiện ban đầu của ông A, kéo theo việc giải quyết vụ án dân sự sẽ không được giải quyết dứt điểm, nội dung tranh chấp vẫn không được giải quyết sẽ tiềm ẩn nguy cơ các bên tự hành xử trái pháp luật, gây mất trật tự, an toàn xã hội, có thể đẩy một trong các bên có hành vi vi phạm pháp luật.
Do vậy, đây được xem là điểm bất cập của pháp luật khi áp dụng quy định về thừa kế quyền và nghĩa vụ của cá nhân trong vụ án dân sự khi mà các cá nhân nhận thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của nhau có quyền và lợi ích hợp pháp đối lập nhau, đơn cử như trường hợp thực tiễn nêu trên.
Do đó, thiết nghĩ cần có cần có văn bản hướng dẫn của TANDTC về vấn đề này để việc áp dụng pháp luật được thống nhất.
Nguồn: Tạp Chí Tòa Án
KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:
[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng – Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.
[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.
[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com
[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:
Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …