Quy định về kết luận giám định tư pháp và thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự
Kết luận giám định là một trong những căn cứ rất quan trọng để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự và Luật giám định tư pháp hiện hành. Vậy, pháp luật quy định như thế nào về Kết luận giám định và thực tiễn áp dụng quy định về kết luận giám định trong khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử tại Tòa án các cấp như thế nào? Mời quý bạn đọc cùng tham khảo bài viết sau đây!
I. CƠ SỞ PHÁP LÝ
– Bộ luật tố tụng hình sự 2015;
– Luật giám định tư pháp 2012;
– Luật Giám định tư pháp sửa đổi 2020.
II. KHÁI NIỆM
– Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật Giám định tư pháp. (Khoản 1 Điều 2 Luật giám định tư pháp 2012, sửa đổi bổ sung 2020).
– Người giám định là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực cần giám định, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu, người tham gia tố tụng yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật (Khoản 1 Điều 68 BLTTHS 2015)
– Người giám định tư pháp theo luật Giám đinh tư pháp bao gồm giám định viên tư pháp và người giám định tư pháp theo vụ việc, trong đó:
+ Giám định viên tư pháp là người đủ tiêu chuẩn bổ nhiệm làm giám định viên tư pháp theo Luật Giám định tư pháp, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm để thực hiện giám định tư pháp.
+ Người giám định tư pháp theo vụ việc là người đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 18 và Điều 20 của Luật giám định tư pháp, được trưng cầu, yêu cầu giám định.
– Kết luận giám định là văn bản do cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức giám định lập để kết luận chuyên môn về những vấn đề được trưng cầu, yêu cầu giám định (Khoản 1 Điều 100 BLTTHS 2015)
III. QUY ĐỊNH CHUNG VỀ GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP
Theo pháp luật tố tụng hình sự, kết luận giám định là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng làm căn cứ để xác định có hay không có sự việc phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, những tình tiết liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
1. Các trường hợp bắc buộc trưng cầu giám định.
Khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 206 của BLTTHS 2015 hoặc khi xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định.
Cụ thể, những vụ án hình sự mà các cơ quan tiến hành tố tụng bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định:
“ 1. Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án;
2. Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó;
3. Nguyên nhân chết người;
4. Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động;
5. Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ;
6. Mức độ ô nhiễm môi trường.”
2. Yêu cầu giám định
Khi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được phân công nhiệm vụ trong khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự, đương sự hoặc người đại diện của họ có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, trừ trường hợp việc giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét, ra quyết định trưng cầu giám định.
Trường hợp không chấp nhận đề nghị thì thông báo cho người đã đề nghị giám định biết bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Hết thời hạn này hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì người đề nghị giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định.
(Điều 207 BLTTHS 2015).
3. Giám định bổ sung
– Việc giám định bổ sung được tiến hành trong trường hợp:
+ Nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ;
+ Khi phát sinh vấn đề mới cần phải giám định liên quan đến tình tiết của vụ án đã có kết luận giám định trước đó.
– Việc giám định bổ sung có thể do tổ chức, cá nhân đã giám định hoặc tổ chức, cá nhân khác thực hiện.
– Việc trưng cầu, yêu cầu giám định bổ sung được thực hiện như giám định lần đầu.
(Điều 210 BLTTHS 2015)
4. Giám định lại
– Việc giám định lại được thực hiện khi có nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không chính xác. Việc giám định lại phải do người giám định khác thực hiện.
– Cơ quan trưng cầu giám định tự mình hoặc theo đề nghị của người tham gia tố tụng quyết định việc trưng cầu giám định lại. Trường hợp người trưng cầu giám định không chấp nhận yêu cầu giám định lại thì phải thông báo cho người đề nghị giám định bằng văn bản và nêu rõ lý do.
– Trường hợp có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì việc giám định lại lần thứ hai do người trưng cầu giám định quyết định. Việc giám định lại lần thứ hai phải do Hội đồng giám định thực hiện theo quy định của Luật giám định tư pháp.
(Điều 211 BLTTHS 2015)
Lưu ý:
Trường hợp đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc giám định lại sau khi đã có kết luận của Hội đồng giám định. Việc giám định lại trong trường hợp đặc biệt phải do Hội đồng mới thực hiện, những người đã tham gia giám định trước đó không được giám định lại. Kết luận giám định lại trong trường hợp này được sử dụng để giải quyết vụ án (Điều 212 BLTTHS 2015).
5. Thời hạn Giám định
– Thời hạn giám định đối với trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định:
+ Không quá 03 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 206 BLTTHS 2015;
+ Không quá 01 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 6 Điều 206 BLTTHS 2015;
+ Không quá 09 ngày đối với trường hợp quy định tại các khoản 2, 4 và 5 Điều 206 BLTTHS 2015
– Lưu ý:
+Thời hạn giám định đối với các trường hợp khác thực hiện theo quyết định trưng cầu giám định.
+ Trường hợp việc giám định không thể tiến hành trong thời hạn nêu trên thì tổ chức, cá nhân tiến hành giám định phải kịp thời thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho cơ quan trưng cầu, người yêu cầu giám định.
+ Thời hạn giám định nêu trên cũng áp dụng đối với trường hợp giám định bổ sung, giám định lại.
(Điều 208 BLTTHS 2015)
6. Nơi tiến hành giám định.
Việc giám định có thể tiến hành tại cơ quan giám định hoặc tại nơi tiến hành điều tra vụ án ngay sau khi có quyết định trưng cầu, yêu cầu giám định.
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, người yêu cầu giám định có thể tham dự giám định nhưng phải báo trước cho người giám định biết.
(Điều 209 BLTTHS 2015)
IV. THỰC TIỄN ÁP DỤNG KẾT LUẬN GIÁM ĐỊNH TRONG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
Tại Điều 211 BLTTHS thì: “Việc giám định lại được thực hiện khi có nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không chính xác. Việc giám định lại phải do người giám định khác thực hiện”. Giám định lại có thể tiến hành lần thứ hai khi có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định. Việc giám định lần hai do người trưng cầu giám định quyết định và phải do Hội đồng giám định thực hiện.
Tuy nhiên, Luật Giám định tư pháp, các văn bản hướng dẫn thi hành và các quy định có liên quan đến giám định tư pháp chưa quy định trong trường hợp có nhiều kết luận giám định khác nhau thì kết quả của lần giám định nào sẽ là kết quả chính thức được sử dụng trong việc giải quyết vụ án, điều này khiến cho thực tế hiện nay nhiều Tòa án nhân dân địa phương vẫn còn lúng túng trong các vụ án hình sự có nhiều kết luận giám định của các tổ chức giám định kết quả khác nhau
Theo khoản 3 Điều 28 Luật giám định tư pháp thì Hội đồng giám định hoạt động theo cơ chế giám định tập thể, các cơ quan giám định tư pháp là độc lập nhau, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả giám định, không có quy định cơ quan giám định cấp cao hơn. Việc chấp nhận bản kết luận giám định nào là quyền của Hội đồng xét xử, không lệ thuộc vào Hội đồng giám định cao hơn hay thấp hơn. Nội dung này cũng rất vướng mắc, khó khăn cho Hội đồng xét xử khi xem xét, đánh giá và áp dụng kết luận giám định nào để giải quyết vụ án được chính xác, đúng pháp luật. Bởi vì, theo quy định của pháp luật thì Hội đồng xét xử không phải là cán bộ chuyên môn về nội dung trưng cầu giám định.
Vì kết luận giám định tư pháp mang tính khoa học, là một trong những nguồn chứng cứ được thu thập theo thủ tục tố tụng, làm căn cứ cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xem xét, đánh giá và quyết định khi giải quyết vụ án. Do đó, khi không thể coi kết luận giám định của một cấp nào đó là tuyệt đối đúng, điều này đòi hỏi trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là cần xem xét, đánh giá cùng với các nguồn chứng cứ khác.
Theo Luật Giám định tư pháp: khi có mâu thuẫn về kết luận giám định, trong trường hợp cần thiết thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng quyết định trưng cầu giám định lại. Tuy nhiên, Luật Giám định tư pháp đã có quy định tại Điều 30 nhằm hạn chế việc giám định nhiều lần và có “điểm dừng”, theo đó, “nếu vụ việc đã được Hội đồng giám định lại lần thứ hai thì không giám định lại nữa, trừ trường hợp đặc biệt do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định”. Đồng thời theo quy định tại Điều 212 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì: “Kết luận giám định lại trong trường hợp do Hội đồng giám định thực hiện trong trường hợp đặc biệt được sử dụng để giải quyết vụ án”
Tuy nhiên, trong thực tế, rất nhiều vụ án kết quả giám định lần đầu và lần sau là có khác nhau, nhưng bị can, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng trong vụ án đều đồng ý với kết luận giám định lần sau và họ không khiếu nại, thắc mắc gì thì đương nhiên có hiệu lực pháp luật; Các bên không cần thiết phải thực hiện việc giám định nhiều lần, gây lãng phí, tốn kém kinh phí.
Có thể nói, đây là một trong những vướng mắc lớn đối với việc sử dụng kết luận giám định vào làm căn cứ để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Vì vậy, rất cần thiết phải có một văn bản chính thức để hướng dẫn rõ điều này, để việc áp dụng quy định về kết luận giám định trở nên thống nhất, tránh tình trạng phải giám định lại nhiều lần, gây tốn kém chi phí, thời gian, cũng như lựa chọn áp dụng kết luận giám định thiếu chính xác và khách quan.
Nguồn: Tạp Chí Tòa Án
KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:
[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng – Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.
[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.
[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com
[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:
Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …