ĐÌNH CHỈ VỤ ÁN HÌNH SỰ DO BỊ HẠI RÚT YÊU CẦU KHỞI TỐ
Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại là một chế định được quy định trong BLTTHS (BLTTHS) 2015, xuất phát từ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, pháp luật quy định cho phép người bị hại lựa chọn quyền yêu cầu khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Do đó, đối với một số tội phạm nhất định, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được khởi tố vụ án khi có yêu cầu của người bị hại, nếu không việc khởi tố này là trái pháp luật. Vì vậy, khi người bị hại rút yêu cầu khởi tố thì vụ án phải được đình chỉ. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây để hiểu rõ đình chỉ vụ án hình sự là gì và hệ quả pháp lý của việc đình chỉ vụ án hình sự.
1. Đình chỉ vụ án hình sự là gì?
Đình chỉ giải quyết vụ án hình sự là quyết định chấm dứt mọi hoạt động của các cơ quan tố tụng đối với bị can, bị cáo trong quá trình tố tụng. Vụ án nếu đã có quyết định đình chỉ thì không được phục hồi điều tra, truy tố, xét xử.
Tùy từng giai đoạn trong vụ án hình sự, thẩm quyền đình chỉ vụ án khác nhau. Tuy nhiên, đình chỉ vụ án chỉ được áp dụng từ giai đoạn truy tố trở đi, khi vụ án đang ở giai đoạn điều tra, chỉ áp dụng quy định về đình chỉ điều tra vụ án, cụ thể:
* Đình chỉ điều tra vụ án hình sự:
Theo quy định tại Điều 230 BLTTHS 2015, cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp:
Một là, có một trong các căn cứ sau đây:
(i) Người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu theo khoản 2 Điều 155 BLTTHS 2015.
(ii) Các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự theo Điều 157 BLTTHS 2015 bao gồm:
– Không có sự việc phạm tội;
– Hành vi không cấu thành tội phạm;
– Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
– Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
– Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
– Tội phạm đã được đại xá;
– Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
– Tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
– Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo Điều 16 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
– Các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 29, khoản 2 Điều 91 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Hai là, đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có thể đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
* Đình chỉ vụ án hình sự trong giai đoạn truy tố
Theo Điều 248 BLTTHS 2015, Viện kiểm sát quyết định không truy tố và ra quyết định đình chỉ vụ án khi: Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 BLTTHS 2015 hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) nêu trên.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả các bị can thì quyết định đình chỉ vụ án đối với từng bị can.
* Đình chỉ vụ án hình sự trong giai đoạn xét xử
Theo khoản 1 Điều 282 BLTTHS 2015, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp:
Một là, có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 hoặc các khoản 3, 4, 5, 6, 7 Điều 157 BLTTHS 2015, bao gồm:
– Người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu theo khoản 2 Điều 155 BLTTHS 2015;
– Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
– Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
– Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
– Tội phạm đã được đại xá;
– Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác.
Hai là, Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo mà căn cứ để đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả bị can, bị cáo thì có thể đình chỉ vụ án đối với từng bị can, bị cáo.
2. Những loại tội phạm chỉ được khởi tố theo yêu cầu của bị hại?
Căn cứ theo khoản 1 Điều 155 BLTTHS 2015 được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi BLTTHS 2017 quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại như sau:
“1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ Luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.”
Như vậy, đối với một số tội phạm đặc biệt liên quan đến bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết thì chỉ khi có yêu cầu trực tiếp của bị hại hoặc người đại diện của người bị hại thì cơ quan có thẩm quyền mới được quyền khởi tố vụ. Những tội phạm nêu trên gồm:
– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134);
– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135);
– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136);
– Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 138);
– Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 139);
– Tội hiếp dâm (Điều 141);
– Tội cưỡng dâm (Điều 143);
– Tội làm nhục người khác (Điều 155);
– Tội vu khống (Điều 156).
3. Quyền rút đơn khởi tố của bị hại
Căn cứ theo khoản 2 Điều 155 BLTTHS 2015 quy định:
“Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.”
Theo như quy định trên thì bị hại được quyền rút yêu cầu bất cứ lúc nào trong suốt quá trình tố tụng, từ giai đoạn điều tra, truy tố đến xét xử. Tại công văn số 254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng về việc người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu theo quy định tại Điều 155 BLTTHS năm 2015 như sau:
Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm: Người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa căn cứ vào Điều 45, điểm a khoản 1 Điều 282 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án; Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155, Điều 299 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án; Trường hợp sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm vẫn còn thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Tòa án phải hướng dẫn họ làm đơn kháng cáo để Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết việc rút yêu cầu theo thủ tục phúc thẩm.
Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm: Trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155 và Điều 359 của Bộ luật Tố tụng hình sự hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Trong bản án phúc thẩm, Tòa án phải nhận định rõ lý do hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án là do người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu, không phải do lỗi của Tòa án cấp sơ thẩm.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
4. Hệ quả của việc đình chỉ vụ án hình sự do bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố.
Căn cứ theo khoản 3 Điều 155 BLTTHS 2015 quy định:“3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”
Như vậy, về phía bị hại, nếu đã rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án thì vụ án sẽ bị đình chỉ, bị hại không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút bị hại yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức. Lúc này, nếu muốn khởi tố lại vụ án phải chứng minh được bị hại do bị ép buộc, cưỡng bức mới phải rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án.
Về phía người bị buộc tội, nếu bị hại đã rút đơn yêu cầu khởi tố thì vụ án sẽ được đình chỉ. Điều này có nghĩa là, người thực hiện vi phạm có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trường hợp vụ án có nhiều bị hại, một trong số các bị hại hoặc một bị hại có yêu cầu rút đơn khởi tố thì Cơ quan tố tụng sẽ vẫn tiếp tục quá trình tố tụng đó. Trường hợp người bị hại chỉ rút yêu cầu khởi tố đối với một hoặc một số bị can (bị cáo), không rút yêu cầu khởi tố đối với một hay một số bị can (bị cáo) còn lại thì vụ án vẫn sẽ được tiếp tục và bị cáo (bị can) được yêu cầu rút đơn sẽ nhận được quyết định đình chỉ với bị can đó.
KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:
[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng – Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.
[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.
[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com
[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:
Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …