LỜI KHAI CỦA ĐƯƠNG SỰ CÓ ĐƯỢC XEM LÀ CHỨNG CỨ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ KHÔNG?
Pháp luật Việt Nam quy định rõ ràng về việc thu thập chứng cứ và quy trình xử lý trong vụ án dân sự. Bên cạnh các chứng cứ, chứng minh khác thì lời khai của đương sự cũng có thể trở thành chứng cứ được xem xét trong vụ án, nhưng phải được kiểm tra kỹ lưỡng để xác định tính chân thực và độ tin cậy. Việc áp dụng luật pháp cụ thể và xem xét tính hợp lệ của lời khai sẽ phụ thuộc vào quy định và tình huống cụ thể của vụ án đó. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây của Luật 3S để hiểu thêm về giá trị chứng minh của lời khai đương sự trong vụ án dân sự nhé.
1. Chứng cứ là gì?
Hiểu một cách đơn giản, chứng cứ là bất kỳ thông tin, tài liệu, hoặc sự kiện nào được sử dụng để hỗ trợ hoặc chứng minh cho một quan điểm, một luận điểm, hoặc một sự kiện cụ thể. Trong hệ thống pháp, chứng cứ được sử dụng để giải quyết tranh chấp và đưa ra quyết định chính xác và công bằng.
Đối với việc giải quyết các vụ án dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015 quy định: Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp [1]. Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây [2]:
– Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
– Vật chứng.
– Lời khai của đương sự.
– Lời khai của người làm chứng.
– Kết luận giám định.
– Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
– Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
– Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
– Văn bản công chứng, chứng thực.
– Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Như vậy, lời khai của đương sự cũng được xem là chứng cứ trong giải quyết vụ án dân sự.
2. Đương sự trong vụ án dân sự gồm những ai?
Theo Điều 68 BLTTDS 2015, Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, trong đó:
– Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.
– Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
3. Quy định về cung cấp, xác minh, thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự
Thứ nhất, về cung cấp chứng cứ chứng minh
Trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, các bên trong vụ án phải có trách nhiệm giao nộp các chứng cứ do mình sở hữu, kiểm soát hoặc biết đến cho tòa án. Cụ thể, Điều 6 BLTTDS 2015 quy định rõ:
“1. Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.
Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định.”
Ngoài ra, đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình cũng phải có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân (sau đây gọi là Viện kiểm sát) tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát theo quy định của BLTTDS và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát [3].
Thứ hai, về xác minh chứng cứ
Không phải mọi chứng cứ được thu thập từ các nguồn nêu trên đều được xem là chứng cứ, mà chứng cứ này phải được thu thập đúng quy định cũng như hình thức thể hiện của chứng cứ phải phù hợp theo quy định.
Đối với chứng cứ là lời khai của đương sự, pháp luật về Tố tụng dân sự yêu cầu lời khai này phải được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh và được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó hoặc khai bằng lời của Đương sự tại phiên tòa. [4]
Thứ ba, về thu thập chứng cứ
Trong giải quyết vụ án dân sự, Thẩm phán, Thẩm tra viên là bên có nhiệm vụ và quyền phải trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ việc dân sự theo quy định của BLTTDS [5].
Đối với đương sự, ngoài quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án để giải quyết vụ án dân sự, Đương sự cũng có quyền đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản [6]
4. Giá trị chứng minh đối với lời khai của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự
Như đã đề cập, lời khai của đương sự được xem là chứng cứ trong giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, giá trị chứng minh của lời khai là không tuyệt đối. Tức là, lời khai của đương sự không mặc nhiên chứng minh cho tình tiết trong vụ án, mà Tòa án và các bên liên quan sẽ xem xét lời khai của đương sự một cách cẩn thận và kỹ lưỡng để xác định tính chân thực của nó, đồng thời kết hợp xem xét bằng chứng khác, và đối chiếu với các thông tin khác để đánh giá các yếu tố về tính nhất quán của lời khai của đương sự và các bên liên quan, sự mâu thuẫn với các bằng chứng khác, và có hay không có bất kỳ động cơ hay tác động nào làm ảnh hưởng đến tính chân thực của lời khai đó. Do đó, lời khai của đương sự chỉ có giá trị chứng minh khi được đưa ra một cách chân thật, khách quan và tuân thủ quy định của pháp luật về thu thập và sử dụng chứng cứ trong quá trình tố tụng.
Lời khai của đương sự được chia làm hai loại: Một là lời khai do đương sự cung cấp bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh trong quá trình Tòa án thu thập, xác minh chứng cứ để giải quyết vụ án (trước Phiên Tòa xét xử) và Hai là lời khai của Đương sự tại Phiên Tòa xét xử. Đối với lời khai được cung cấp trước phiên Tòa, việc lấy lời khai được quy định như sau [7]:
– Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của mình. Trường hợp đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự. Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những tình tiết mà đương sự khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Tòa án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản. Thẩm phán lấy lời khai của đương sự tại trụ sở Tòa án; trường hợp cần thiết có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Tòa án.
– Biên bản ghi lời khai của đương sự phải được người khai tự đọc lại hay nghe đọc lại và ký tên hoặc điểm chỉ. Đương sự có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản ghi lời khai và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận. Biên bản phải có chữ ký của người lấy lời khai, người ghi biên bản và đóng dấu của Tòa án; nếu biên bản được ghi thành nhiều trang rời nhau thì phải ký vào từng trang và đóng dấu giáp lai. Trường hợp biên bản ghi lời khai của đương sự được lập ngoài trụ sở Tòa án thì phải có người làm chứng hoặc xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản.
– Việc lấy lời khai của đương sự là người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi phải được tiến hành với sự có mặt của người đại diện hợp pháp của đương sự đó.
Ngoài ra, theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy có mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng, Thẩm phán có thể tiến hành đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng hoặc giữa những người làm chứng với nhau. Việc đối chất phải được lập thành biên bản, có chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tham gia đối chất [8].
Cơ sở pháp lý:
[1] Điều 93 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
[2] Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
[3] Điều 7 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
[4] Khoản 2, khoản 5 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
[5] Khoản 7 Điều 48, khoản 3 Điều 50 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
[6] Khoản 7 Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
[7] Điều 98 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
[8] Điều 100 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:
[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng – Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.
[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.
[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com
[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:
Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …