
CÓ ĐƯỢC KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐANG THẾ CHẤP TẠI NGÂN HÀNG?
Trong thực tiễn thi hành án dân sự, việc xác minh tài sản của người phải thi hành án và tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản là giai đoạn then chốt để đảm bảo quyền lợi cho người được thi hành án. Một trong những tình huống thường gặp là người phải thi hành án có tài sản nhưng tài sản đó đang được thế chấp tại ngân hàng. Vậy câu hỏi đặt ra: chấp hành viên có được kê biên tài sản đang thế chấp để thi hành án không? Bài viết sau đây sẽ phân tích chi tiết khía cạnh pháp lý xoay quanh vấn đề này.
1. Thế chấp là gì?
Thế chấp tài sản là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phổ biến, được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, thế chấp được hiểu là việc một bên (bên thế chấp) dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên kia (bên nhận thế chấp) mà không chuyển giao tài sản cho bên nhận bảo đảm. Bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu xử lý tài sản này nếu bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết.
Theo quy định tại khoản 8 Điều 320 Bộ luật Dân sự 2015, trong thời gian thế chấp, bên thế chấp không được tự ý bán, thay thế, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp, trừ khi rơi vào các trường hợp ngoại lệ được pháp luật cho phép. Cụ thể, khoản 4 và khoản 5 Điều 321 quy định:
(i) Được bán, thay thế, trao đổi tài sản thế chấp, nếu tài sản đó là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Trong trường hợp này, quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền, số tiền thu được, tài sản hình thành từ số tiền thu được, tài sản được thay thế hoặc được trao đổi trở thành tài sản thế chấp.
Trường hợp tài sản thế chấp là kho hàng thì bên thế chấp được quyền thay thế hàng hóa trong kho, nhưng phải bảo đảm giá trị của hàng hóa trong kho đúng như thỏa thuận.
(ii) Được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, nếu được bên nhận thế chấp đồng ý hoặc theo quy định của luật.
Các quy định nêu trên thể hiện rõ nguyên tắc pháp lý: Trong quan hệ thế chấp, quyền định đoạt của bên thế chấp bị giới hạn, nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng và quyền ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm. Việc bên thế chấp chuyển nhượng hoặc sử dụng tài sản vào mục đích khác khi chưa đáp ứng điều kiện luật định hoặc không có sự đồng ý của bên nhận thế chấp đều có thể làm phát sinh tranh chấp và dẫn đến hệ quả pháp lý bất lợi, thậm chí có thể bị tuyên vô hiệu nếu hành vi đó xâm phạm quyền lợi của bên nhận thế chấp.
2. Điều kiện để kê biên tài sản đang thế chấp
Việc pháp luật cho phép kê biên tài sản đang thế chấp trong thi hành án là một cơ chế quan trọng nhằm đảm bảo khả năng thu hồi nghĩa vụ cho người được thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản khác. Tuy nhiên, do đặc điểm pháp lý đặc biệt của tài sản thế chấp, vốn đã được dùng để bảo đảm nghĩa vụ ưu tiên cho bên nhận thế chấp nên chấp hành viên chỉ được xử lý tài sản này khi xác định chắc chắn có phần giá trị dư ra sau khi thanh toán nghĩa vụ bảo đảm, đủ để thi hành án và chi trả chi phí cưỡng chế.
Theo khoản 1 Điều 90 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định rõ: Chấp hành viên được quyền kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp nếu người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc tài sản khác không đủ để thi hành án, đồng thời tài sản bị kê biên phải có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế.
Như vậy, Luật Thi hành án dân sự cho phép việc kê biên, xử lý đối với tài sản đang cầm cố, thế chấp khi đáp ứng đủ hai điều kiện:
(i) Người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án; và
(ii) Giá trị tài sản phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án. Đây được xem là hai “điều kiện tiên quyết” cần phải đáp ứng để có thể tiến hành xử lý đối với tài sản đang thế chấp.
Đồng thời, khoản 2 Điều này quy định: “Chấp hành viên phải thông báo ngay cho người nhận cầm cố, nhận thế chấp”. Xét thấy, pháp luật chỉ ghi nhận nghĩa vụ thông báo cho người nhận thế chấp được biết, không ghi nhận về việc phải được sự đồng ý của bên nhận thế chấp. Như vậy, việc kê biên, xử lý tài sản đang thế chấp không cần phải được sự đồng ý, chấp thuận của bên nhận thế chấp. Số tiền thu được từ việc bán tài sản thế chấp sẽ được ưu tiên thanh toán cho Bên nhận thế chấp sau khi trừ các chi phí về thi hành án theo quy định tại khoản 3 Điều 47 của Luật thi hành án dân sự.
Từ những quy định trên, có thể thấy pháp luật hoàn toàn cho phép việc xử lý tài sản đang thế chấp tại ngân hàng để thi hành án.
3. Trường hợp không được xử lý tài sản đang thế chấp tại ngân hàng
Mặc dù pháp luật thi hành án dân sự cho phép chấp hành viên kê biên tài sản đang bị thế chấp nếu đáp ứng các điều kiện nhất định, nhưng quyền này không phải là tuyệt đối, cụ thể:
Tại khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 quy định: “Trường hợp tài sản cầm cố, thế chấp đủ điều kiện để kê biên, xử lý theo quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự mà người nhận cầm cố, thế chấp đang tiến hành xử lý để thu hồi nợ vay theo quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm thì chấp hành viên không thực hiện việc kê biên, xử lý đối với tài sản đó nhưng phải có văn bản yêu cầu người xử lý tài sản cầm cố, thế chấp thông báo ngay kết quả xử lý tài sản cho cơ quan thi hành án dân sự, giữ lại số tiền còn lại (nếu có) để cơ quan thi hành án dân sự giải quyết theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, bên cạnh hai điều kiện tiên quyết về tài sản (không còn tài sản khác hoặc tài sản không đủ; tài sản có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế), chấp hành viên còn phải xác minh kỹ lưỡng xem tổ chức tín dụng đã và đang triển khai quy trình xử lý tài sản hay chưa. Chỉ khi tài sản thế chấp chưa bị đưa vào quy trình xử lý thì việc kê biên mới được phép thực hiện theo quy định.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định thời điểm nào được coi là “đang tiến hành xử lý để thu hồi nợ vay” lại chưa được pháp luật quy định cụ thể và nhất quán, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng. Một số ý kiến cho rằng chỉ khi ngân hàng khởi kiện ra Tòa án, hoặc thực hiện thông báo phát mãi tài sản, hoặc ủy quyền cho đơn vị đấu giá, thì mới được coi là đang xử lý tài sản. Trong khi đó, cũng có quan điểm cho rằng việc gửi thông báo nhắc nợ, cảnh báo vi phạm nghĩa vụ vay hoặc gửi công văn thông báo thu hồi nợ cũng đã đủ điều kiện để coi là khởi đầu quá trình xử lý. Chính sự không rõ ràng này có thể gây khó khăn cho chấp hành viên trong việc xác định thời điểm phù hợp để áp dụng biện pháp kê biên và xử lý tài sản thế chấp.
4. Kết luận
Tài sản đang thế chấp tại ngân hàng hoàn toàn có thể bị kê biên để thi hành án, theo quy định rõ ràng của pháp luật. Tuy nhiên, việc xử lý các tài sản này cần tuân thủ nguyên tắc ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ được bảo đảm, và đòi hỏi chấp hành viên phải thận trọng trong việc xác minh pháp lý tài sản, định giá, cũng như phối hợp với bên thứ ba có quyền lợi liên quan như ngân hàng.
KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:
[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng – Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.
[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.
[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com
[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:
Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …