15

Th8

BẮT ĐẦU LẠI THỜI HIỆU KHỞI KIỆN ĐỐI VỚI TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ

Khi giao kết hợp đồng, các bên luôn mong muốn đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng và kết thúc hợp đồng một cách tốt đẹp. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên vẫn có thể xảy ra tranh chấp. Trong việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng dân sự, thì thời hiệu khởi kiện là một trong những vấn đề đặc biệt lưu ý khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng. Bởi lẽ, khi hết thời hiệu khởi kiện thì mất quyền khởi kiện. Vậy thời hiệu khởi kiện này được quy định như thế nào? Căn cứ áp dụng ra sao? Và trường hợp nào thì được tính bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện? Cùng theo dõi bài viết sau đây của Luật 3S để biết thêm về các quy định này nhé!

 

1. QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỜI HIỆU

* Khái niệm về thời hiệu

Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định.

Trong việc khởi kiện đối với vụ án dân sự, Thời hiệu khởi kiện được hiểu là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện (Khoản 3 Điều 150 Bộ luật Dân sự 2015).

* Các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện

Có 4 trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 155 BLDS 2015, gồm:

Một là, Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản.

Hai là, Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

Ba là, Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.

Và bốn là các trường hợp khác do luật quy định.

* Thời hiệu khởi kiện trong tranh chấp hợp đồng dân sự

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết “tranh chấp hợp đồng” là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

Cần lưu ý, đối với các hợp đồng được phát sinh trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực thì theo điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS năm 2015, thời hiệu được áp dụng theo quy định của BLDS năm 2015.

* Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng dân sự:

Thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng là khoảng thời gian diễn ra liên tục từ thời điểm bắt đầu đến thời điểm kết thúc. Tuy nhiên, nếu xảy ra các sự kiện dưới đây thì khoảng thời gian xảy ra các sự kiện đó không được tính vào thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng, cụ thể:

a) Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.

b) Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

c) Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình.

d) Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

đ) Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường hợp sau đây:

e) Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân;

g) Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.

 

2. QUY ĐỊNH VỀ BẮT ĐẦU LẠI THỜI HIỆU KHỞI KIỆN

* Quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện

Theo quy định tại khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thì: “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”.

Căn cứ vào quy định này, Tòa án không mặc nhiên áp dụng thời hiệu đối với hợp đồng dân sự giữa các bên mà chỉ xem xét khi có một bên hoặc các bên yêu cầu và yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc.

Đồng thời, để bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán không giải thích cho đương sự quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu.

Ngoài ra, khi hết thời hiệu khởi kiện, người khởi kiện vẫn có quyền gửi đơn khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền, yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Theo đó, đối với vụ việc hết thời hiệu khởi kiện nhưng một bên hoặc các bên, người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu từ chối áp dụng thời hiệu (trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ), có nghĩa là không ai có yêu cầu Tòa án áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện thì Tòa án vẫn giải quyết tranh chấp hợp đồng theo thủ tục chung. Chỉ khi hết thời hiệu khởi kiện và có yêu cầu áp dụng quy định về thời hiệu của một bên hoặc các bên trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết tranh chấp hợp đồng thì Tòa án mới căn cứ quy định tại điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 để quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp hợp đồng. Như vậy, Tòa án không được tự ý viện dẫn lý do đã hết thời hiệu khởi kiện để đình chỉ giải quyết tranh chấp hợp đồng.

* Các trường hợp bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện

Theo quy định tại Điều 157 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp:

– Thứ nhất, bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện.

Ví dụ: Ngày 21/05/2009 ông A thỏa thuận cho ông B vay số tiền 500.000.000 đồng, lãi suất 3%/tháng, đóng lãi hàng tháng, tiền vốn thỏa thuận là 06 tháng trả. Sau khi vay, ông B đóng lãi được 03 tháng thì không đóng và cũng không trả vốn. Ngày 01/05/2016 ông A làm đơn khởi kiện ra Tòa buộc ông B trả gốc và lãi theo quy định. Tại phiên tòa sơ thẩm ông B thừa nhận chỉ vay ông A 300.000.000 đồng và không đồng ý phần lãi do hoàn cảnh khó khăn. Theo quy định tại Điều 429 Bộ luật dân sự năm 2015 thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản là 03 năm. Tuy nhiên, tại phiên Tòa sơ thẩm ông B thừa nhận chỉ vay ông A 300.000.000 đồng nên thời hiệu khởi kiện sẽ được tính lại từ khi ông B thừa nhận nợ 300.000.000 đồng.

– Thứ hai, bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;

Cũng theo ví dụ trên, nếu trước khi ông A khởi kiện ra tòa án, ngày 01/02/2016 ông B đã trả cho ông A 200.000.000 đồng, hai bên có làm lại giấy biên nhận còn nợ lại 300.000.000 đồng không hẹn khi nào sẽ trả, thì thời hiệu khởi kiện được tính lại từ khi có biên nhận nợ, tức là ngày 01/02/2016.

– Thứ ba, các bên đã tự hòa giải với nhau.

Theo đó, thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra một trong các sự kiện nêu trên.

Về nguyên tắc, thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng được tính từ ngày người có quyền yêu cần biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, kể từ ngày người có nghĩa vụ đã thừa nhận nghĩa vụ của mình (một phần hoặc toàn bộ) hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ với người khởi kiện, hoặc các bên tự hòa giải với nhau thì thời hiệu khởi kiện được bắt đầu lại.

 

Tham khảo:

– vkscantho.vn

– tapchitoaan.vn

– Bộ luật dân sự 2015.

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

 

Tin tức liên quan