CẤP DƯỠNG NUÔI CON TỪ THỜI ĐIỂM NÀO?
Trên thực tiễn khi giải quyết các vụ ly hôn nếu các bên không thỏa thuận được thì Tòa án căn cứ vào những quy định hiện hành và điều kiện khả năng thực tế của mỗi bên để quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng. Bên không trực tiếp nuôi dưỡng sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Vậy, thời điểm nào bên có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng? Nghĩa vụ này được thực hiện đến khi nào? Cùng tìm hiểu các vấn đề này qua bài viết sau nhé!
I. CƠ SỞ PHÁP LÝ
– Bộ luật dân sự 2015;
– Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
– Luật hôn nhân và gia đình 2014.
II. CĂN CỨ PHÁT SINH NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG SAU LY HÔN
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
Như vậy, Điều kiện chung để phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng bao gồm: (i) Nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh từ quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng; (ii) Người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng không sống chung với nhau.
Theo đó, căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ sau khi ly hôn gồm:
Một là, nghĩa vụ cấp dưỡng với con chưa thành niên trong trường hợp không sống chung với con. Theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi. Trường hợp cha, mẹ ly hôn khi con chưa đủ 18 tuổi, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ phải chi trả tiền cấp dưỡng để đảm bảo quyền lợi cho con về tài sản cho đến khi con trưởng thành.
Hai là, nghĩa vụ cấp dưỡng với con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con. Không có khả năng lao động có thể hiểu là mất sức lao động do tai nạn, bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự… Tuy nhiên, không có khả năng lao động phải đi kèm với điều kiện không có tài sản để tự nuôi mình. Thực tế, có rất nhiều trường hợp con không có khả năng lao động nhưng vẫn có tài sản để tự nuôi mình. Trường hợp này, cha mẹ không có nghĩa vụ cấp dưỡng nữa.
III. XÁC ĐỊNH THỜI ĐIỂM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG
Hiện nay, trong thực tiễn xét xử, vấn đề xác định thời điểm cấp dưỡng nuôi con vẫn còn nhiều vướng mắc chưa thống nhất. Cụ thể:
Quan điểm thứ nhất: Thời điểm thời điểm cấp dưỡng nuôi con được tính từ ngày vợ hoặc chồng gửi đơn yêu cầu thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự để yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
Quan điểm này căn cứ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 chỉ có quy định về mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng nuôi con do vợ chồng thỏa thuận. Trường hợp không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, khi pháp luật không có quy định cụ thể thời điểm vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn từ lúc nào nên Tòa án không cần phải ghi thời điểm vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con vào quyết định, bản án của Tòa án. Theo đó, sau khi bản án, quyết định có hiệu lực thì một bên vợ hoặc chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ tự thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo bản án, quyết định đã tuyên. Tuy nhiên, nếu như họ không tự nguyện, thì bên còn lại có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành án đối với bên có nghĩa vụ cấp dưỡng. Cho nên thời điểm cấp dưỡng nuôi con được tính từ ngày vợ hoặc chồng gửi đơn yêu cầu thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự để yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
Quan điểm thứ hai, thời điểm bắt đầu cấp dưỡng sau ly hôn là thời điểm được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Vấn đề này, theo BLTTDS 2015 có quy định: “2. Những bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, khiếu nại, kháng nghị, kiến nghị: a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc, trả lương, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất tinh thần của công dân; quyết định về tính hợp pháp của cuộc đình công…”(Khoản 2 Điều 482).
Điều 483. Ghi nhận và giải thích về quyền yêu cầu thi hành án dân sự
Trường hợp trong bản án, quyết định của Tòa án có quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 482 của Bộ luật này thì trong phần quyết định của bản án, quyết định của Tòa án phải ghi rõ nội dung về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Khi ra bản án, quyết định, Tòa án phải giải thích rõ cho đương sự biết về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự.
Như vậy, để đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích của con sau khi ly hôn thì cần phải xác định thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là ngay sau khi bản án, quyết định của Tòa án về thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có hiệu lực. Tránh trường hợp, một bên có nghĩa vụ cấp dưỡng cố tình trốn tránh hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo bản án, quyết định đã tuyên, mà phải đợi thực hiện thủ tục thi hành án theo quan điểm thứ nhất thì sẽ gây bất lợi cho trẻ đối với những quyền lợi chưa thực hiện trong khoản thời gian trước khi thi hành án.
Bên cạnh đó, theo một số trường hợp cụ thể, vấn đề xác định thời điểm cấp dưỡng lại có nhiều quan điểm phát sinh. Điển hình như việc xác định thời điểm cấp dưỡng liên quan đến xác nhận cha, mẹ cho con.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên là ngày đứa trẻ được sinh ra đời.
Cụ thể, đối với những tranh chấp về nghĩa vụ cấp dưỡng có liên quan đến việc xác nhận cha cho con. Thì Tòa án phải xác định thời điểm cấp dưỡng là thời điểm kể từ khi đứa bé được sinh ra. Quan điểm này phù hợp với nguyên tắc về xác định cha, mẹ, con và nghĩa vụ về nuôi dưỡng, cấp dưỡng giữa cha, mẹ, con.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì cha đẻ, mẹ đẻ là cha mẹ được xác định “dựa trên sự kiện sinh đẻ hoặc từ việc mang thai hộ theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình”. Như vậy, việc xác định cha đẻ, mẹ đẻ thông qua bản án, quyết định của Tòa án chỉ là phương thức để thực hiện quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con không phải là căn cứ tính thời điểm xác lập quan hệ cha mẹ và con, cũng như không phải là thời điểm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ và con. Do đó, quyền, nghĩa vụ về nuôi dưỡng của cha, mẹ đối với con chưa thành niên quy định tại Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 phải tính từ thời điểm con được sinh ra, nguyên tắc này cũng được áp dụng cho cấp dưỡng vì bản chất nghĩa vụ cấp dưỡng là một dạng thức nghĩa vụ nuôi dưỡng áp dụng cho người trực tiếp nuôi con.
Ngoài ra, việc xác định thời điểm cấp dưỡng từ ngày xét xử sơ thẩm là không công bằng cho người mẹ vì giai đoạn trước thời điểm xét xử sơ thẩm người mẹ phải gánh vác trách nhiệm nuôi con một mình, việc Tòa xét xử sơ thẩm vào thời điểm nào không lệ thuộc vào ý chí của người mẹ và người cha có thể tìm cách trì hoãn ngày xét xử sơ thẩm để từ đó thoái thác trách nhiệm cấp dưỡng. Do đó, xác định nghĩa vụ cấp dưỡng từ thời điểm đứa bé sinh ra là hoàn toàn phù hợp.
Quan điểm thứ tư cho rằng: Thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là ngày bản án, quyết định của Tòa án về việc xác định cha cho con có hiệu lực pháp luật.
Cụ thể, việc bản án, quyết định của Tòa án về việc xác định cha cho con có hiệu lực thì mới làm phát sinh quyền làm cha và nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con. Bởi lẽ, mặc dù là một người cha đẻ thật sự nhưng trước thời điểm có bản án, quyết định của Tòa án tuyên về việc xác định cha cho con thì chưa có căn cứ pháp lý để xác định được chính xác ai là cha của đứa trẻ đó. Đồng thời, trong thực tế, cũng có thể người cha có thể cũng chưa biết được sự tồn tại của người con chưa thành niên của mình để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Do đó, trước ngày bản án, quyết định của Tòa án về việc xác nhận cha cho con có hiệu lực thì chưa có cơ sở pháp lý làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của người cha theo quy định tại Điều 69 LHNGĐ như: quyền giám hộ hoặc đại diện theo quy định của BLDS cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình… do đó chưa thể hình thành mối quan hệ cha – con về mặt pháp lý.
Như vậy, có thể thấy, vấn đề xác định thời điểm cấp dưỡng từ khi nào trong giải quyết các vấn đề về cấp dưỡng sau ly hôn vẫn còn có quan điểm khác nhau. Mỗi quan điểm đều đưa ra lập luận và căn cứ riêng. Do đó, đòi hỏi mỗi quyết định, bản án đã tuyên phải ghi rõ thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cũng như cần có một cơ sở pháp lý chung để vấn đề xác định thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của các Tòa án được thống nhất.
KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:
[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng – Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.
[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.
[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com
[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:
Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …