29

Th8

GIỚI HẠN XÉT XỬ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Giới hạn xét xử là chế định pháp lý quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự. Là cơ sở pháp lý để xác định phạm vi xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm (được xét xử những bị cáo nào, theo hành vi nào, tội danh nào), đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.

 

I. ĐỊNH NGHĨA?

Trong hoạt động xét xử nói chung, mỗi cấp xét xử đều có những chức năng, nhiệm vụ nhất định đối với từng vụ án hình sự. Ngay cả đối với vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án cấp sơ thẩm cũng chỉ có thể xem xét, quyết định đối với những vấn đề của vụ án trong một phạm vi nhất định nào đó theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Nghĩa là, khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Tòa án chỉ được thực hiện quyền hạn của mình trong một giới hạn nhất định, nếu vượt ra ngoài giới hạn đó, mọi quyết định của Tòa án đều không có giá trị pháp lý. Vì vậy, giới hạn xét xử sơ thẩm là một vấn đề rất quan trọng, nó định ra phạm vi thực hiện quyền hạn của Tòa án khi tiến hành xét xử sơ thẩm một vụ án hình sự cụ thể.

Cho đến nay, không có một văn bản pháp lý nào trong hoạt động tố tụng quy định rõ khái “giới hạn xét xử” mà chỉ liệt kê những việc mà Tòa án được làm trong từng giai đoạn tố tụng và được thể hiện dưới các thuật ngữ như “giới hạn xét xử sơ thẩm”, “phạm vi xét xử phúc thẩm”, “phạm vi giám đốc thẩm”.

Tuy nhiên, có thể hiểu, Giới hạn xét xử sơ thẩm trong vụ án hình sự là một phạm vi, giới hạn, khuôn khổ, khung nhất định mà Tòa án sơ thẩm trong quá trình xét xử, ra quyết định sơ thẩm vụ án hình sự không thể hoặc không được vượt qua.

Pháp luật TTHS quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát (VKS), Tòa án trong TTHS; các nguyên tắc cơ bản của TTHS; mối quan hệ giữa các giai đoạn trong TTHS; mối quan hệ giữa phạm vi xét xử sơ thẩm và giới hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm; vai trò của Tòa án trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm; nhu cầu cần giải quyết những ý kiến chưa thống nhất giữa VKS và Tòa án; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.

Có thể thấy, việc quy định giới hạn xét xử trong vụ án hình sự được đặt ra nhằm mục đích đảm bảo tính định hướng cho hoạt động tố tụng của các chủ thể tiến hành tố tụng, các chủ thể tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử, đặc biệt, đối với Tòa án, việc xác định giới hạn xét xử còn giúp tránh tình trạng lạm quyền, vượt quyền, trái quyền gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ thể tham gia tố tụng. Ngoài ra, quy định này còn đảm bảo cho bị cáo và người bào chữa có thể có thể chủ động trong việc chuẩn bị tài liệu, chứng cứ để tranh tụng với quan điểm buộc tội từ Viện kiểm sát.

 

II. GIỚI HẠN XÉT XỬ TRONG BLTTHS NĂM 2015

Giới hạn của việc xét xử được quy định tại Điều 298 BLTTHS 2015 như sau:

“1. Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.

2. Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố.

3. Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh VKS truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó”.

Theo quy định trên, có thể thấy, về giới hạn xét xử của BLTTHS năm 2015 bao gồm 03 nội dung:

Thứ nhất, Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Giới hạn xét xử trong trường hợp này là việc Tòa án xét xử những bị can, bị cáo bị VKS truy tố bằng bản Cáo trạng và Tòa án chỉ xét xử trong phạm vi bản Cáo trạng của VKS. Ngoài ra, trong quá trình xét xử tại phiên tòa, Tòa án phát hiện có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm thì Tòa án cũng không được đưa người đó ra xét xử mà chỉ có thể ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự (Điều 153 BLTTHS 2015) để điều tra bổ sung theo đúng trình tự.

Như vậy, để một hành vi được đưa ra xét xử tại phiên Tòa thì luôn luôn phải đảm bảo hành vi đó đã được khởi tố, điều tra, truy tố theo đúng trình tự và đúng thẩm quyền. Nếu một hành vi chưa được điều tra, truy tố thì không thể bị Tòa án kết án mặc dù có tài liệu, chứng cứ trong vụ án cũng như kết quả thẩm vấn tại phiên tòa cho thấy hành vi đó thỏa mãn tội danh đó.

Ví dụ: Nguyễn Văn A bị truy tố về  hành vi trộm cắp tài sản của Nguyễn Văn B về Tội trộm cắp tài sản. Tại phiên tòa, mặc dù qua xét hỏi và tranh luận còn chứng minh được Nguyễn Văn C cùng Nguyễn Văn A thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của Nguyễn Văn B, thì Tòa án cũng không được kết án Nguyễn Văn C phạm Tội trộm cắp tài sản vì Viện kiểm sát không truy tố Nguyễn Văn C; Nguyễn Văn A bị Viện kiểm sát truy tố về 05 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, mỗi lần trộm cắp tài sản đều có giá trị từ trên 2.000.000 đồng trở lên. Tại phiên tòa, mặc dù qua xét hỏi và tranh luận còn chứng minh được Nguyễn Văn A còn có 01 lần khác trộm cắp tài sản có giá trị trên 2.000.000 đồng, thì Tòa án cũng chỉ được kết án Nguyễn Văn A về 5 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản mà không được kết án về hành vi trộm cắp mới được chứng minh tại phiên tòa.  Trong các trường hợp nêu trên, Tòa án phải căn cứ vào điểm b hoặc c khoản 1 Điều 280 BLTTHS trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Thứ hai, Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố.

Đối với trường hợp Tòa án xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật.

Điều này có nghĩa là với những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố, Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn hoặc theo khoản nhẹ hơn so với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật. Ví dụ: Viện kiểm sát truy tố bị cáo A về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 174 BLHS, Hội đồng xét xử cũng quyết định bị cáo phạm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng áp dụng khoản 1, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 174 BLHS để xử phạt  bị cáo về tội phạm này.

Đối với trường hợp, Toà án xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Để kết tội bị cáo về một tội bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát truy tố cần so sánh tội mà Viện kiểm sát đã truy tố và tội mà Tòa án định xét xử. Theo đó:

– Tội phạm khác bằng tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy tố là trường hợp điều luật quy định về trách nhiệm hình sự (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) đối với 02 tội phạm như nhau. Ví dụ: Bị cáo B bị Viện kiểm sát truy tố về tội “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”, thì Toà án có thể xét xử bị cáo B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

– Tội phạm khác nhẹ hơn tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy tố là trường hợp điều luật quy định về trách nhiệm hình sự (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) đối với tội phạm khác nhẹ hơn so với tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy tố. Để xác định tội nào nhẹ hơn, tội nào nặng hơn thì cần thực hiện theo thứ tự như sau:

+ Trước hết xem xét hình phạt chính đối với hai tội phạm, nếu tội nào điều luật có quy định loại hình phạt nặng nhất nặng hơn thì tội đó nặng hơn.

+ Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội là tù có thời hạn (không quy định hình phạt tử hình, hình phạt tù chung thân) thì tội nào, điều luật quy định mức hình phạt tù cao nhất đối với tội ấy cao hơn là tội đó nặng hơn.

+ Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội đều tử hình hoặc đều tù chung thân hoặc đều tù có thời hạn và mức hình phạt tù cao nhất đối với cả hai tội như nhau, thì tội nào điều luật quy định mức hình phạt tù khởi điểm cao hơn là tội đó nặng hơn.

+ Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội đều là tù có thời hạn và mức hình phạt tù khởi điểm, mức hình phạt tù cao nhất như nhau, thì tội nào điều luật còn quy định loại hình phạt chính khác nhẹ hơn (cải tạo không giam giữ, phạt tiền, cảnh cáo) thì tội đó nhẹ hơn. Nếu điều luật cùng quy định các loại hình phạt như nhau, nhưng có mức cao nhất, mức khởi điểm khác nhau thì việc xác định tội nặng hơn, tội nhẹ hơn được thực hiện tương tự như đã trình bày trên đây.

+ Trong trường hợp điều luật quy định các loại hình phạt chính đối với cả hai tội như nhau, thì tội nào điều luật còn quy định hình phạt bổ sung là tội đó nặng hơn. Nếu điều luật cùng quy định hình phạt bổ sung như nhau, nhưng đối với tội này thì hình phạt bổ sung là bắt buộc, còn đối với tội khác hình phạt bổ sung có thể áp dụng, thì tội nào điều luật quy định hình phạt bổ sung bắt buộc là tội đó nặng hơn.

Khi áp dụng Điều 298 “Giới hạn của việc xét xử” BLTTHS cần chú ý hai vấn đề:

Một là, khi Viện kiểm sát truy tố bị cáo về nhiều tội với nhiều hành vi phạm tội, thì Toà án cũng có thể xét xử bị cáo về tội nhẹ nhất trong các tội mà Viện kiểm sát truy tố hoặc về tội nhẹ hơn tất cả các tội mà Viện kiểm sát truy tố đối với tất cả các hành vi phạm tội đó.

Hai là, trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì áp dụng khoản 3 Điều 298 BLTTHS 2015

Thứ ba, Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh VKS truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó

– Việc phối hợp thực hiện trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong trường hợp này được thực hiện theo Điều 7, Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP như sau:

+Trường hợp phải thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can về tội danh khác nặng hơn thì Viện kiểm sát trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung để thay đổi tội danh và kết luận điều tra về tội danh khác nặng hơn;

+ Nếu Viện kiểm sát đã yêu cầu mà Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can về tội danh khác nặng hơn và yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện theo quy định tại Điều 156 và Điều 180 của BLTTHS;

 

III. MỘT SỐ VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP

Một là, trường hợp Tòa án cấp huyện, Tòa án quân sự cấp khu vực xét xử bị cáo về khoản khác nặng hơn hoặc về tội danh nặng hơn mà VKS đã truy tố. Tòa án trả hồ sơ như thế nào là phù hợp?

Đây là trường hợp Tòa án nhân cấp huyện hoặc Tòa án quân sự cấp quân khu đang là Tòa án xét xử sơ thẩm đối với bị cáo bị cáo bị VKS truy tố về tội ít nghiêm trọng; nghiêm trọng; rất nghiêm trọng. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo thuộc vào khoản nặng hơn hoặc tội nặng hơn mà VKS đã truy tố và tội nặng đó lại thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng thì sẽ không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện và Tòa án quân sự cấp khu vực theo quy định tại Điều 268 BLTTHS 2015. Hơn nữa việc xét xử loại tội đặc biệt nghiêm trọng cũng dẫn đến sự thay đổi rất nhiều về thủ tục tố tụng như sự thay đổi về thành phần Hội đồng xét xử (Điều 254 BLTTHS 2015) và việc chỉ định người bào chữa. Trong trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển vụ án theo quy định tại Điều 274 BLTTHS 2015.

Nhưng nếu Viện Kiểm sát đã truy tố cho rằng vụ án vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án đã trả hồ sơ và chuyển lại hồ sơ vụ án đến Tòa án thì trong trường hợp này vụ án sẽ do Tòa án cấp nào có thẩm quyền giải quyết khi quy định tại Điều 275 BLTTHS chỉ có quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các Tòa án nhân dân cùng cấp (Tòa án quân sự cùng cấp) mà không có quy định về giải quyết tranh chấp giữa Tòa án nhân dân cấp trên (Tòa án quân sự cấp trên) và Tòa án nhân dân cấp dưới (Tòa án quân sự cấp dưới).

Để các Tòa án không bị vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình thì cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng trường hợp nêu trên.

Hai là, Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và ảnh hưởng đến thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm.

Trên cơ sở giới hạn xét xử sơ thẩm, thì việc thực hiện thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm (HĐXXPT) cũng bị ảnh hưởng bởi vì bản chất của xét xử phúc thẩm là xét xử lại vụ án trên cơ  sở kháng cáo, kháng nghị. Hiện nay, không có điều luật nào quy định về sự phụ thuộc của giới hạn xét xử phúc thẩm theo giới hạn xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 330 thì: “Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị”. Theo đó, đối tượng của xét xử phúc thẩm chính là vụ án đã được xét xử sơ thẩm mà bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật lại phát sinh kháng cáo, kháng nghị. Như vậy, Toà án cấp phúc thẩm chỉ được xét xử đối với những bị cáo mà VKS truy tố và Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định đưa ra xét xử. Nếu Toà án cấp phúc thẩm căn cứ vào tình tiết mới, sửa bản án sơ thẩm đối với chủ thể và hành vi mà viện kiểm sát không truy tố và Toà án cấp sơ thẩm chưa đưa ra xét xử thì không bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử.

Ngoài ra, nếu Toà án cấp phúc thẩm áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn chỉ được coi là phù hợp giới hạn xét xử sơ thẩm nếu tội danh nặng hơn đó đã được viện kiểm sát viện dẫn để truy tố mà toà án cấp sơ thẩm không áp dụng để xét xử.

Bên cạnh đó, bản chất của Xét xử phúc thẩm là “xét xử lại vụ án” chứ không xét xử vụ án lần thứ hai, vì vậy không được chấp nhận tình tiết mới ngoài giới hạn xét xử sơ thẩm để sửa bản án sơ thẩm. Hơn nữa, cơ sở phát sinh thẩm quyền của HĐXXPT đối với bản án hình sự sơ thẩm là kháng cáo, kháng nghị hợp pháp đối với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, thẩm quyền còn được mở rộng ra những phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, thậm chí mở rộng xem xét toàn bộ nội dung nếu Hội đồng xét xử thấy đó là cần thiết và không vi phạm nguyên tắc “không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo”. Cụ thể, tại khoản 3 Điều 357 BLTTHS: “Trường hợp có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều này cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.” Tức là HĐXXPT chỉ được xem xét những vấn đề ngoài phạm vi kháng cáo, kháng nghị khi vấn đề đó có lợi cho bị cáo như: Miễn trách nhiệm hình sự, giảm hình phạt, chuyển sang tội khác nhẹ hơn…. (khoản 1 Điều 357). Như vậy, có thể thấy thẩm quyền của HĐXXPT bị giới hạn bởi phạm vi của kháng cáo, kháng nghị đối với những tình tiết tăng nặng đối với bị cáo mặc dù có đủ căn cứ để sửa bản án sơ thẩm, nhưng những tình tiết này chưa được điều tra, truy tố tại cấp Xét xử sơ thẩm thì việc HĐXXPT chấp nhận kháng cáo sẽ vượt quá giới hạn xét xử sơ thẩm. Như vậy, dù kháng cáo, kháng nghị hợp lệ, không vi phạm quy định của pháp luật nhưng nếu vượt quá thẩm quyền xét xử sơ thẩm thì cũng không được chấp nhận.

 

Tham khảo

– Bộ luật hình sự 2015;

– Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

– Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP, ngày 22 tháng 12 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

– Kiemsat.vn

– Tạp chí Tòa án.

 

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

 

Tin tức liên quan