
LÀM GÌ KHI KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ BỊ TRẢ LẠI ĐƠN?
Việc khởi kiện vụ án dân sự là quyền của cá nhân, tổ chức nhằm yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đơn khởi kiện có thể bị Tòa án trả lại do không đáp ứng điều kiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Điều này đặt ra vấn đề: Người khởi kiện cần làm gì khi bị trả lại đơn? Bài viết này sẽ phân tích các căn cứ pháp lý của việc trả lại đơn khởi kiện và hướng xử lý phù hợp, mời các bạn cùng theo dõi.
1. Căn cứ pháp lý về việc trả lại đơn khởi kiện
Theo Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây:
a) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và Điều 187 của Bộ luật này hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự
Thứ nhất, năng lực hành vi tố tụng dân sự được hiểu là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng. Theo Điều 69 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, một cá nhân có năng lực hành vi tố tụng đầy đủ nếu họ đủ tuổi theo quy định pháp luật và không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Đương sự là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, trừ người mất năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác.
Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì năng lực hành vi tố tụng dân sự của họ được xác định theo quyết định của Tòa án.
Thứ hai, về người khởi kiện không có quyền khởi kiện được hiểu là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
(i) Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là trường hợp người làm đơn khởi kiện không nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chính mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà mình là người đại diện hợp pháp;
(ii) Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là trường hợp người làm đơn khởi kiện không thuộc trường hợp theo quy định của pháp luật có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước.
Ví dụ: Tổ chức A (không phải là tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010) cho rằng Công ty B bán hàng hóa không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng như đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết dẫn đến việc chị C (người tiêu dùng) mua sử dụng bị thiệt hại nên Tổ chức A làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty B bồi thường thiệt hại cho chị C. Trường hợp này, Tổ chức A không có quyền khởi kiện vụ án bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định tại khoản 3 Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
(iii) Yêu cầu khởi kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân không cần xác minh, thu thập chứng cứ cũng đủ căn cứ kết luận là không có việc quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm hoặc cần bảo vệ.
Ví dụ: Cụ A chết năm 2010, để lại di sản là căn nhà X nhưng không có di chúc và không có thỏa thuận khác. Cụ A có con là ông B (còn sống, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản theo Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015). Trường hợp này, theo quy định của pháp luật về thừa kế thì anh C là con của ông B không có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản của cụ A theo pháp luật.
b) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp pháp luật có quy định về các điều kiện khởi kiện nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó
Theo Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP, chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật là trường hợp pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật khác có quy định về các điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó.
Ví dụ: Công ty A là người sử dụng lao động ký hợp đồng với ông B, trong hợp đồng ghi rõ ông B sẽ được Công ty cho đi học nghề 01 năm, đồng thời ông B có nghĩa vụ làm việc tại Công ty ít nhất là 05 năm kể từ thời điểm học xong. Tuy nhiên, sau khi học xong ông B chỉ làm việc ở Công ty A 02 năm. Công ty A khởi kiện ông B ra Tòa án buộc ông B hoàn trả chi phí đào tạo học nghề khi chưa tiến hành thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động. Trường hợp này, theo quy định tại Điều 201 Bộ luật lao động năm 2012, khoản 1 Điều 32 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Công ty A chưa đủ điều kiện khởi kiện vụ án.
Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,… thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án.
c) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
Nếu tranh chấp đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định có hiệu lực của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền, Tòa án sẽ từ chối thụ lý đơn khởi kiện trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại
d) Hết thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 195 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án
Trừ trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại khách quan, sự kiện bất khả kháng thì mọi trường hợp khác nếu người khởi kiện đã nộp đơn khởi kiện mà trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện không nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện cho người nộp đơn.
đ) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Theo Điều 4 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP, vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là trường hợp mà theo quy định của pháp luật thì các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác hoặc đang do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác giải quyết.
Ví dụ: Theo quy định tại khoản 2 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 thì tranh chấp đất đai mà đối với thửa đất đó cơ quan, tổ chức, cá nhân không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013 có quyền lựa chọn Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 để giải quyết tranh chấp. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân đã nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền và cơ quan đó đang giải quyết tranh chấp thì vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
e) Người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật Tố tụng dân sự
Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu cầu của Thẩm phán thì Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện;
g) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện
Nếu người khởi kiện chủ động rút đơn trước khi Tòa án thụ lý vụ án, đơn khởi kiện sẽ bị trả lại.
2. Hệ quả pháp lý của việc trả lại đơn khởi kiện
Khi đơn khởi kiện bị trả lại, điều này không đồng nghĩa với việc người khởi kiện mất quyền khởi kiện vĩnh viễn. Họ vẫn có thể nộp lại đơn khi đã khắc phục được lý do bị trả lại theo đúng quy định pháp luật. Theo khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại trong các trường hợp sau đây:
a) Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
b) Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;
c) Đã có đủ điều kiện khởi kiện;
d) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
3. Hướng xử lý khi bị trả lại đơn khởi kiện
Khi nhận được quyết định trả lại đơn khởi kiện từ Tòa án, người khởi kiện có thể thực hiện các bước sau để bảo vệ quyền lợi của mình:
Bước 1: Xác định nguyên nhân bị trả lại đơn khởi kiện
Trước tiên, người khởi kiện cần xem xét quyết định trả lại đơn do Tòa án ban hành để xác định chính xác lý do bị trả lại.
Theo quy định tại Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, có nhiều lý do khiến Tòa án trả lại đơn khởi kiện, và mỗi nguyên nhân sẽ có cách xử lý khác nhau. Do đó, người khởi kiện phải tự mình xác định được nguyên nhân bị trả lại đơn có căn cứ hay không, sau đó mới có thể lựa chọn các hướng xử lý phù hợp để bảo vệ quyền lợi của mình.
Bước 2: Lựa chọn hướng xử lý phù hợp
Sau khi xác định nguyên nhân bị trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện có thể chọn một trong ba hướng xử lý sau:
(i) Khắc phục sai sót và nộp lại đơn khởi kiện
Tùy lý do bị trả lại đơn là gì mà người khởi kiện cần lựa chọn việc khắc phục sai sót cho phù hợp, ví dụ như:
– Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Nếu người nộp đơn không phải là người có quyền, lợi ích liên quan trực tiếp đến vụ án, hoặc trong trường hợp cá nhân chưa đủ năng lực hành vi dân sự mà không có người đại diện hợp pháp, Tòa án sẽ không thụ lý vụ việc. Khi gặp trường hợp này, người khởi kiện cần kiểm tra lại xem mình có phải là người có quyền khởi kiện hay không, hoặc nếu không có năng lực hành vi tố tụng, cần bổ sung giấy tờ chứng minh có người đại diện hợp pháp.
– Hoặc vụ việc chưa đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật. Đối với một số loại tranh chấp, pháp luật yêu cầu phải thực hiện thủ tục tiền tố tụng trước khi khởi kiện, chẳng hạn như hòa giải bắt buộc đối với tranh chấp lao động hoặc tranh chấp đất đai. Nếu đơn khởi kiện bị trả lại do thiếu thủ tục này, người khởi kiện cần tiến hành hòa giải và bổ sung biên bản hòa giải không thành trước khi nộp lại đơn.
– Nếu đơn khởi kiện cũng có thể bị trả lại nếu vụ việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật. Khi Tòa án đã xét xử và ra phán quyết cuối cùng, người khởi kiện không thể nộp đơn yêu cầu giải quyết lại trừ khi có căn cứ yêu cầu giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Nếu gặp tình huống này, cần kiểm tra lại xem có tình tiết mới hay vi phạm nghiêm trọng trong quá trình xét xử để có cơ sở yêu cầu xem xét lại vụ án theo trình tự đặc biệt.
– Nếu đơn khởi kiện không đáp ứng các yêu cầu về hình thức và nội dung. Ví dụ như: không đúng mẫu, thiếu các thông tin quan trọng như thông tin về nguyên đơn, bị đơn, nội dung yêu cầu khởi kiện hoặc thiếu tài liệu chứng cứ đi kèm, Tòa án sẽ từ chối thụ lý. Người khởi kiện cần kiểm tra lại mẫu đơn theo đúng quy định của pháp luật, bổ sung đầy đủ các thông tin cần thiết và chuẩn bị các tài liệu chứng minh quyền khởi kiện, và nộp lại đơn khởi kiện.
(ii) Khiếu nại quyết định trả lại đơn khởi kiện
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được thông báo trả lại đơn khởi kiện, nếu xét thấy việc trả lại đơn không đúng căn cứ pháp luật nêu trên, thì người khởi kiện có quyền khiếu nại đến Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa án thụ lý đơn khởi kiện. Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại, người khởi kiện có thể tiếp tục khiếu nại lên Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp để yêu cầu xem xét lại.
(iii) Cân nhắc phương thức giải quyết tranh chấp khác
Trong một số trường hợp, nếu không thể tiếp tục khởi kiện hoặc gặp khó khăn trong việc đáp ứng điều kiện khởi kiện, người khởi kiện có thể cân nhắc sử dụng các phương thức giải quyết tranh chấp khác như: Thương lượng, hòa giải với bị đơn để đạt thỏa thuận ngoài Tòa án. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền của cơ quan khác (ví dụ: trọng tài thương mại, hòa giải viên lao động, Ủy ban nhân dân, thanh tra, cơ quan quản lý chuyên ngành….), người khởi kiện có thể chuyển sang phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp.
Bước 3: Theo dõi và thực hiện các thủ tục tiếp theo
Sau khi nộp lại đơn hoặc khiếu nại, người khởi kiện cần theo dõi phản hồi từ Tòa án và bổ sung thông tin theo yêu cầu. Nếu vụ việc được thụ lý, người khởi kiện cần chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ và thực hiện nghĩa vụ tố tụng theo yêu cầu của Tòa án.
4. Kết luận
Việc trả lại đơn khởi kiện có thể xảy ra vì nhiều lý do khác nhau, nhưng không đồng nghĩa với việc mất quyền khởi kiện. Người khởi kiện cần hiểu rõ căn cứ pháp lý và cách khắc phục để bảo vệ quyền lợi của mình. Trong trường hợp bị trả lại đơn, nên bình tĩnh xác định nguyên nhân, khắc phục sai sót, hoặc khiếu nại nếu quyết định trả lại không đúng pháp luật.
KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:
[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng – Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.
[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.
[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com
[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:
Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …