09

Th1

NHỮNG TRƯỜNG HỢP KHÔNG ĐƯỢC LÀM NGƯỜI ĐẠI DIỆN TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ  

Người đại diện trong vụ án dân sự đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể đảm nhiệm vai trò này. Pháp luật Việt Nam quy định rõ các trường hợp không được làm người đại diện nhằm bảo đảm tính khách quan, trung thực và bảo vệ quyền lợi của các bên trong quá trình tố tụng. Vậy đó là những trường hợp nào, mời các bạn cùng theo dõi nội dung bài viết dưới đây.

1. Người đại diện trong vụ án dân sự là ai?

Người đại diện trong vụ án dân sự là cá nhân hoặc tổ chức được pháp luật công nhận quyền thay mặt đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Theo quy định tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, người đại diện bao gồm:

– Người đại diện theo pháp luật: Đây là người được pháp luật chỉ định làm đại diện cho cá nhân hoặc tổ chức, chẳng hạn như cha mẹ làm đại diện cho con chưa thành niên, hoặc người được Tòa án chỉ định làm đại diện cho người mất năng lực hành vi dân sự.

– Người đại diện theo ủy quyền: Đây là người được đương sự giao quyền thông qua hợp đồng ủy quyền, văn bản ủy quyền để thay mặt mình tham gia tố tụng. Người đại diện theo ủy quyền có thể là cá nhân hoặc tổ chức.

Ví dụ: Ông D là chủ một doanh nghiệp và ủy quyền cho luật sư E làm người đại diện theo ủy quyền trong vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại hợp đồng. Trong trường hợp này, luật sư E có quyền thay mặt ông D thực hiện các thủ tục tố tụng, như tham gia phiên tòa hoặc gửi các tài liệu cần thiết.

2. Quyền, nghĩa vụ của người đại diện

– Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự trong phạm vi mà mình đại diện.

– Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự theo nội dung văn bản ủy quyền.

3. Những trường hợp không được làm người đại diện

Nhằm đảm bảo tính khách quan, công bằng và tránh xung đột lợi ích trong quá trình giải quyết vụ án, pháp luật đã quy định rõ những trường hợp không được làm người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền trong vụ án dân sự. Theo Điều 87 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, những trường hợp này bao gồm:

Thứ nhất, đang là đương sự trong cùng vụ án có lợi ích đối lập với bên mà mình đại diện

Cụ thể, pháp luật quy định: Nếu một người cũng là đương sự trong cùng một vụ án mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện không được phép làm người đại diện.

Ví dụ:

Ông A và ông B là hai anh em ruột, cùng tham gia vào một vụ tranh chấp thừa kế tài sản với tư cách là đương sự. Ông B muốn ủy quyền cho ông A làm người đại diện để tham gia tố tụng thay mình. Tuy nhiên, trong vụ án này, quyền lợi của ông A và ông B có sự đối lập do cả hai đều yêu cầu quyền sở hữu đối với cùng một phần di sản. Vì vậy, ông A không được phép làm người đại diện cho ông B.

Quy định này nhằm ngăn ngừa xung đột lợi ích và bảo vệ sự công bằng cho các bên tham gia tố tụng. Bởi nếu người đại diện là đương sự trong vụ án và quyền lợi của họ đối lập với quyền lợi của người được đại diện, họ sẽ gặp phải tình huống xung đột lợi ích, khiến cho việc bảo vệ quyền lợi của cả hai bên trở nên không công bằng hoặc thiếu khách quan.

Thứ hai, đang là người đại diện theo pháp luật trong cùng vụ án có lợi ích đối lập với bên mà mình đại diện

Cụ thể, khi một người đang làm đại diện theo pháp luật cho một đương sự, họ có nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó. Tuy nhiên, nếu người đại diện này đồng thời cũng là người đại diện theo pháp luật cho một đương sự khác trong cùng vụ án mà quyền lợi của hai bên đương sự đối lập nhau, thì người đại diện sẽ rơi vào tình huống xung đột lợi ích. Trong trường hợp này, người đại diện không thể đảm bảo quyền lợi hợp pháp của cả hai bên một cách công bằng, vì quyền lợi của các bên này đối lập nhau. Như vậy, nhằm bảo vệ sự công bằng và bảo đảm rằng mỗi bên đều có cơ hội công bằng trong việc bảo vệ quyền lợi của mình trước Tòa án thì pháp luật không cho phép đại diện trong trường hợp này.

Ví dụ: Bà H là người đại diện theo pháp luật cho một công ty trong vụ kiện liên quan đến việc tranh chấp với cổ đông công ty. Trong vụ án này, bà H cũng là người đại diện cho ông T, một cổ đông của công ty, người đang yêu cầu công ty bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của cổ đông. Vì quyền lợi của công ty và ông T trong vụ án là đối lập, bà H không thể đồng thời là người đại diện cho cả hai bên.

Thứ ba, Cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Công an không được làm người đại diện trong tố tụng dân sự

Cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Công an không được làm người đại diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật.

Điều này có thể được hiểu là Cán bộ, công chức làm việc tại các cơ quan Tòa án, Viện Kiểm sát, hay Công an có trách nhiệm bảo vệ pháp luật và thực hiện chức năng công quyền. Nếu họ tham gia tố tụng với tư cách người đại diện cho các cá nhân, tổ chức trong những vụ án dân sự, điều này có thể gây ra sự thiếu công bằng trong việc áp dụng pháp luật, ảnh hưởng đến tính khách quan của vụ án.

Tuy nhiên, pháp luật cũng tạo ra một ngoại lệ cho trường hợp cho các đối tượng này có thể tham gia tố tụng trong vai trò đại diện cho cơ quan của mình hoặc tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo pháp luật.

Ví dụ: Ông A là Chánh án của Tòa án nhân dân tỉnh B. Trong một vụ tranh chấp đất đai giữa hai hộ gia đình, ông A không thể làm người đại diện cho một trong các bên tranh chấp vì ông là công chức của Tòa án. Tuy nhiên, nếu trong một vụ kiện, Tòa án nơi ông A công tác là nguyên đơn trong một vụ kiện về bồi thường thiệt hại do lỗi của cơ quan tiến hành tố tụng, ông A có thể làm người đại diện theo pháp luật cho Tòa án nhân dân tỉnh B trong vụ kiện này.

4. Kết luận

Những quy định về các trường hợp không được làm người đại diện trong tố tụng dân sự được pháp luật đặt ra nhằm duy trì sự công bằng và khách quan trong quá trình giải quyết tranh chấp. Việc hiểu rõ và tuân thủ các điều khoản này là rất quan trọng đối với các bên tham gia vụ án, giúp họ tránh được các rủi ro và đảm bảo quá trình tố tụng diễn ra đúng quy định của pháp luật.

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

Tin tức liên quan