12

Th7

 PHÂN BIỆT TẠM GIỮ VÀ TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

“Tạm giữ” và “Tạm giam” là hai biện pháp ngăn chặn được áp dụng trong tố tụng hình sự để đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan có thẩm quyền. Điều kiện áp dụng và tính chất pháp lý của hai biện pháp này là hoàn toàn khác nhau tuy nhiên rất dễ bị nhầm lẫn trong thực tế. Bài viết sau đây xin chia sẽ đến quý bạn đọc các quy định về tạm giữ và tạm giam cũng như phân biệt rõ giữa tạm giữ và tạm giam. Mời quý bạn đọc cùng theo dõi.

1. Về mặt khái niệm và trường hợp áp dụng

Có thể hiểu tạm giữ người là trường hợp người bị tạm giữ là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giữ theo quy định của BLTTHS. Căn cứ Điều 117 BLTTHS 2015, tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.

Còn đối với tạm giam được hiểu là trường hợp Người bị tạm giam đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giam theo quy định của BLTTHS, bao gồm: bị can; bị cáo; người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án; người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ. Theo Điều 119 BLTTHS 2015, tạm giam có thể áp dụng đối với các trường hợp sau:

Một là, đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.

Hai là, đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:

– Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;

– Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;

– Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;

– Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;

– Hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Ba là, đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 2 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.

Bốn là, Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:

– Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;

– Tiếp tục phạm tội;

– Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;

– Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

2. Về đối tượng áp dụng

Theo Điều 117 BLTTHS 2015 quy định, tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã. Trong đó:

– Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là những người bị cơ quan có thẩm quyền ra ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp nếu thuộc một trong các trường hợp như:

+ Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

+ Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;

+ Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

– Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang là những người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt thì bất kỳ người nào và giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất để các cơ quan này tiếp nhận, giải quyết theo quy định pháp luật.

– Tự thú là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện.

– Đầu thú là việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình.

Trong khi đó, tạm giam áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng trong một số trường hợp nhất định (Điều 119), Trong đó:

– Bị can hay Bị cáo là tên gọi một người khi ở vào các giai đoạn tiến hành tố tụng khác nhau. Được gọi là bị can khi cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can, được gọi là bị cáo khi tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

– Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

– Tội rất nghiêm trọng: Là tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù.

– Tội nghiêm trọng: Là tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;

– Tội ít nghiêm trọng: Là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm.

3. Về thời hạn tạm giữ, tạm giam

– Tạm giữ: Không quá 03 ngày. Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 03 ngày. Trường hợp đặc biệt, có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày (Điều 118 BLTTHS 2015)

– Tạm giam: Không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng; Không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng; Không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (Điều 173 BLTTHS 2015)

Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn tạm giam. Việc gia hạn tạm giam được quy định cụ thể:

– Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 1 tháng;

– Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 2 tháng;

– Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 3 tháng;

– Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không quá 4 tháng.

Như vậy có thể thấy, thời hạn tạm giam sẽ nhiều hơn thời hạn tạm giữ và thời gian tạm giữ sẽ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.

4. Về thẩm quyền ra quyết định tạm giam, tạm giữ

a) Đối với tạm giữ: Theo quy định tại Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, bao gồm:

– Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;

– Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;

– Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.

b) Đối với Tạm giam: Theo quy định tại Điều 113 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, bao gồm:

– Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;

– Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;

– Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.

Như vậy, nhìn chung có thể thấy, hậu quả của việc áp dụng biện pháp tạm giữ và tạm giam đều làm cho người bị bắt bị hạn chế một số quyền nhân thân trong thời gian đó chẳng hạn như quyền tự do đi lại,…Tuy nhiên, về mặt hệ quả pháp lý, đối với người bị tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì sẽ được Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trả tự do ngay hoặc trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát phải sẽ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

Đối với tạm giam, đây là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị cách li với xã hội trong một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền của công dân. Trong thời hạn tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam (gia hạn tạm giam) thì Cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét thấy cần thiết thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác (Điều 173 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Đối với những biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn trong giai đoạn điều tra thì việc hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác phải do Viện kiểm sát quyết định. Căn cứ theo điểm i khoản 1 Điều 13 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, khi nhận được quyết định có nội dung về việc không tiếp tục áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam của cơ quan có thẩm quyền, cơ sở giam giữ có trách nhiệm thực hiện và trả tự do cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định.

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

 

Tin tức liên quan