PHÁP LUẬT VỀ DỮ LIỆU ĐIỆN TỬ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Cùng với sự đột phá của cách mạng 4.0 thì dữ liệu điện tử cũng được ứng dụng đưa vào mọi mặt trong đời sống xã hội, trong đó có cả lĩnh vực pháp luật. Điển hình là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS 2015) đã bổ sung dữ liệu điện từ là một nguồn chứng cứ và có giá trị như các nguồn chứng cứ khác trong quy định tại Điều 87 để làm cơ sở xác định hành vi phạm tội và xử lý tội phạm; đây là lần đầu tiên Bộ luật Tố tụng hình sự công nhận loại nguồn chứng cứ này. Vậy, pháp luật về hình sự đã quy định như thế nào về dữ liệu điện trong hoạt động tố tụng hiện nay?
1. DỮ LIỆU ĐIỆN TỬ LÀ GÌ?
Trước thời điểm BLTTHS 2015 có hiệu lực, các thuật ngữ như “Chứng cứ điện tử” hay “Dấu vết số” đã gây nhiều tranh cải do thuật ngữ chưa được thống nhất gây khó khăn trong việc điều tra, xử lý trong hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, khi BLTTHS 2015 có hiệu lực, khái niệm này đã được nêu rõ tại Điều 99, cụ thể: “Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử”. Các nguồn chứa dữ liệu điện tử bao gồm phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác.
2. DỮ LIỆU ĐIỆN TỬ NÀO ĐƯỢC XEM LÀ CHỨNG CỨ?
Chứng cứ trước tiên theo quy định tại Điều 86 BLTTHS 2015 là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Theo đó, Điều 87 của bộ luật này quy định một trong những nguồn chứng cứ là “dữ liệu điện tử” đã cho thấy, trong giai đoạn hiện nay nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình chứng minh vụ án hình sự.
Tuy nhiên, không phải mọi dữ liệu điện tử đều được xem là nguồn chứng cứ. Theo đó, để dữ liệu điện tử trở thành nguồn chứng cứ thì nó phải có giá trị chứng, việc xác định giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử căn cứ vào “cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi dữ liệu điện tử; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác” (Khoản 3 Điều 99 BLTTHS 2015)
Thực tiễn cho thấy việc xác định chứng cứ điện tử khó khăn hơn nhiều so với chứng cứ truyền thống. Trong khi chứng cứ truyền thống là những thông tin mang tính vật chất mà con người có thể kiểm soát, cầm nắm, chi phối được, mà điều này lại không có ở chứng cứ điện tử. Bởi chứng cứ điện tử tồn tại những cơ chế riêng như: cơ chế hình thành (sự phản ánh), cơ chế tồn tại và cơ chế mang thông tin của dữ liệu điện tử khác với các chứng cứ truyền thống, dẫn đến cách hiểu về chứng cứ điện tử cũng khác nhau. Do đó, việc xác định chứng cứ điện tử phải thỏa mãn 3 yếu tố như sau:
Một là dữ liệu tồn tại khách quan:
Chứng cứ là dữ liệu điện tử không khác gì chứng cứ truyền thống, cả hai đều phải đảm bảo tính khách quan, xác thực trong quá trình thu thập. Tuy nhiên, sự khác biệt chủ yếu giữa chứng cứ điện tử và chứng cứ truyền thống ở bản chất động, có thể dễ dàng thay đổi và bị thay đổi, cố ý hoặc vô ý của chứng cứ điện tử. Do đó, cần phải đảm bảo tính khách quan của chứng cứ điện tử ở chỗ: Dữ liệu điện tử đó phải đúng với sự thật, sự việc xảy ra, tồn tại khách quan, có nguồn gốc rõ ràng, không bị cắt ghép, chỉnh sửa, biên tập, làm sai lệch, biến dạng nội dung; đã được tìm thấy và đang lưu trên máy tính, điện thoại di động, email, USB, tài khoản trên mạng…
Hai là dữ liệu phải liên quan đến vụ án
Dữ liệu điện tử thu được phải có liên quan đến hành vi phạm tội, đối tượng phạm tội, nạn nhân, hậu quả…, được sử dụng để xác định các tình tiết của vụ án. Tính liên quan thể hiện ở nguyên lý, cơ chế hình thành dữ liệu video, thông tin về không gian, thời gian hình thành dữ liệu, địa chỉ lưu trữ, nội dung thông tin, thời gian phạm tội…
Ba là dữ liệu làm chứng cứ phải được thu thập một cách hợp pháp
Chứng cứ điện tử này phải là Dữ liệu điện tử được thu thập đúng quy định của BLTTHS 2015, sử dụng các công cụ, phương tiện, công nghệ được pháp luật công nhận. Trong cả quá trình khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ vật chứng, sao lưu điện tử, bảo quản, phục hồi, phân tích, tìm kiếm, giám định dữ liệu và khi sử dụng chứng cứ, phải kiểm tra tính hợp pháp của biện pháp thu thập.
Theo đó, hiện trình tự thủ tục về thu thập dữ liệu điện tử được quy định tại Điều 5 Thông tư liên tịch 10/2012/TTLT của BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-TANDTC ngày 10/9/2012. Cụ thể:
“1. Để bảo đảm giá trị chứng cứ, cần thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng hình sự đối với việc khám xét, thu giữ, tạm giữ, bảo quản vật chứng có lưu dữ liệu điện tử như: Ổ cứng máy tính, bộ nhớ trong của điện thoại di động, máy ảnh, máy ghi hình, máy fax, máy ghi âm, máy đọc thẻ, thẻ từ, thẻ chíp, thẻ nhớ, USB, đĩa CD, đĩa VCD, đĩa DVD và các loại phương tiện điện tử khác. Khi thu giữ phương tiện điện tử cần chú ý:
a) Đối với máy tính: Không được tắt (shutdown) theo trình tự mà ngắt nguồn cung cấp điện trực tiếp cho thân máy (CPU) hoặc máy tính (đối với máy tính xách tay);
b) Đối với điện thoại di động: Tắt máy, thu giữ cả điện thoại, thẻ nhớ, thẻ sim, bộ sạc điện thoại (nếu có);
c) Đối với phương tiện điện tử khác: Tắt thiết bị, thu giữ cả phụ kiện đi kèm (nếu có).
Khi bàn giao cho chuyên gia phục hồi dữ liệu điện tử, phải làm thủ tục mở niêm phong và niêm phong theo quy định của pháp luật. Để bảo đảm tính nguyên trạng và toàn vẹn của chứng cứ lưu trong vật chứng, việc sao chép dữ liệu để phục hồi, phân tích phải được thực hiện bằng thiết bị “chỉ đọc” (Read only), chỉ thực hiện trên bản sao, không được ghi đè, sửa chữa dữ liệu. Để chuyển hóa thành chứng cứ pháp lý, dữ liệu điện tử phải được chuyển sang dạng có thể đọc được, nhìn được, nghe được; phải lập biên bản về nội dung dữ liệu điện tử đã phục hồi, phân tích; kèm theo lời khai, xác nhận của người phạm tội, người làm chứng về những thông tin đó”.
3. THU THẬP, THU GIỮ, BẢO QUẢN VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ LÀ DỮ LIỆU ĐIỆN TỬ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Về thu thập chứng cứ là dữ liệu điện tử
BLTTHS 2015 đã cụ thể hóa hoạt động thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử tại Điều 107, cụ thể như sau:
(1) Phương tiện điện tử phải được thu giữ kịp thời, đầy đủ, mô tả đúng thực trạng và niêm phong ngay sau khi thu giữ. Việc niêm phong, mở niêm phong được tiến hành theo quy định của pháp luật. Trường hợp không thể thu giữ phương tiện lưu trữ dữ liệu điện tử thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sao lưu dữ liệu điện tử đó vào phương tiện điện tử và bảo quản như đối với vật chứng, đồng thời yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan lưu trữ, bảo toàn nguyên vẹn dữ liệu điện tử mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã sao lưu và cơ quan, tổ chức, cá nhân này phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
(2) Khi thu thập, chặn thu, sao lưu dữ liệu điện tử từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc trên đường truyền, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành phải lập biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án.
(3) Khi nhận được quyết định trưng cầu giám định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cá nhân, tổ chức có trách nhiệm thực hiện phục hồi, tìm kiếm, giám định dữ liệu điện tử.
(4) Việc phục hồi, tìm kiếm, giám định dữ liệu điện tử chỉ được thực hiện trên bản sao; kết quả phục hồi, tìm kiếm, giám định phải chuyển sang dạng có thể đọc, nghe hoặc nhìn được.
(5) Phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử được bảo quản như vật chứng theo quy định của Bộ luật này. Khi xuất trình chứng cứ là dữ liệu điện tử phải kèm theo phương tiện lưu trữ dữ liệu hoặc bản sao dữ liệu điện tử.
Về Thu giữ phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử
Việc thu giữ phương tiện điện tử và dữ liệu điện tử thự hiện theo Điều 196 BLTTHS 2015, cụ thể: Việc thu giữ phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện và có thể mời người có chuyên môn liên quan tham gia. Trường hợp không thể thu giữ được thì phải sao lưu vào phương tiện lưu trữ và thu giữ như đối với vật chứng. Khi thu giữ các phương tiện điện tử có thể thu thiết bị ngoại vi kèm theo và các tài liệu có liên quan.
Về bảo quản dữ liệu điện tử
BLTTHS 2015 quy định phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử được bảo quản như vật chứng tại các Điều 107, điều 192. Ngoài ra, điều 199 cũng quy định về trách nhiệm bảo quản phương tiện, dữ liệu điện tử, cụ thể: “1. Phương tiện, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ, tạm giữ hoặc bị niêm phong phải được bảo quản nguyên vẹn. 2. Người nào phá hủy niêm phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc hủy hoại phương tiện, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự”
Về căn cứ khám xét dữ liệu điện tử
BLTTHS 2015 đã bổ sung thêm dữ liệu điện tử là đối tượng tiến hành khám xét tại Điều 192 BLTTHS. Theo đó thì khi có căn cứ nhận định trong dữ liệu điện tử có công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì có thể tiến hành khám xét dữ liệu điện tử đó. Để thu được dữ liệu điện tử làm chứng cứ buộc phải khám xét cả phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử như máy tính, điện thoại di động, thiết bị lưu dữ liệu điện tử như USB, ổ cứng, email, tài khoản, cơ sở dữ liệu lưu trên các thiết bị khác….
Về khám nghiệm hiện trường
Điều 201 BLTTHS 2015 đã bổ sung thêm quyền thu giữ dữ liệu điện tử có liên quan đến vụ án như là một thẩm quyền mới của Điều tra viên khi tiến hành khám nghiệm hiện trường mà phát hiện các dữ liệu điện tử này mang dấu vết của tội phạm. Quy định này như một sự hợp thức hóa việc thu giữ dữ liệu điện tử khi khám nghiệm hiện trường, giúp cho hoạt động bảo quản phương tiện điện tử, phương tiện lưu trữ dữ liệu điện tử sau khi thu giữ được diễn ra liền mạch theo đúng quy định của pháp luật, giúp cơ quan có thẩm quyền không phải lúng túng khi thực hiện nhiệm vụ.
Về thu thập bí mật dữ liệu điện tử
Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (Điều 223) lần đầu tiên được thừa nhận trong BLTTHS 2015. Vì vậy, việc cho phép người có thẩm quyền tiến hành tố tụng được quyền tiến hành các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt nói chung và quyền thu thập bí mật dữ liệu điện tử nói riêng đã tạo hành lang pháp lý để có thể thu được nguồn chứng cứ có giá trị chứng minh tội phạm trực tiếp bởi trước đây trên thực tế, các Điều tra viên tiến hành các hoạt động trinh gặp không ít khó khăn trong việc chuyển hóa chứng cứ để được pháp luật công nhận.
4. MỘT SỐ VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
Thứ nhất, chưa thống nhất trong việc sử dụng các thuật ngữ
Điều 107 BLTTHS với tên gọi của điều luật là “Thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử”, trong khi đó tại khoản 1 điều này quy định: “Phương tiện điện tử phải được thu giữ kịp thời… Qua quy định này dường như nhà làm luật đang đồng nhất hai khái niệm “thu thập phương tiện điện tử” và “thu giữ phương tiện điện tử”. Tuy nhiên, Điều 196 lại tiếp tục quy định về việc thu giữ phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử. Quy định như vậy là chưa thống nhất và gây khó hiểu cho người nghiên cứu cũng như áp dụng pháp luật. Bởi dữ liệu điện tử là một trong những nguồn chứng cứ phải thu thập, còn phương tiện điện tử là nơi để chứa đựng dữ liệu điện tử. Vì vậy, sau khi khám xét phương tiện điện tử có chứa dữ liệu điện tử là nguồn chứng cứ thì mới phát sinh việc thu thập dữ liệu điện tử và tiến hành thu giữ phương tiện điện tử chứa dữ liệu điện tử đó. Do đó cần nghiên cứu để chỉnh sửa các quy định về thu giữ phương tiện điện tử tại Điều 107 BLTTHS 2015 để nhập chung vào quy định tại Điều 197 (Thu giữ phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử), tạo sự thống nhất trong các quy định của pháp luật.
Ngoài ra, đối với phương tiện điện tử, BLTTHS 2015 chưa quy định khái niệm “phương tiện điện tử” và “thiết bị lưu trữ dữ liệu điện tử”. Đây là vấn đề rất quan trọng do thực tế các phương tiện điện tử ngày càng đa dạng và không thể thiếu trong đời sống hàng ngày, trong sản xuất kinh doanh và cần được hướng dẫn rõ, nhằm phục vụ cho công tác điều tra, xử lý chứng cứ trong hoạt động tố tụng.
Thứ hai, Về cách thức thu thập bí mật dữ liệu điện tử
BLTTHS 2015 đã chính thức thừa nhận biện pháp thu thập bí mật dữ liệu điện tử như một biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Tuy nhiên các quy định này chỉ dừng lại ở việc ghi nhận các thủ tục cần thiết trước khi tiến hành mà không quy định thủ tục pháp lý sau khi tiến hành các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt này. Các thông tin, tài liệu thu thập được sẽ được bảo quản, lưu trữ như thế nào, có giống như việc bảo quản, lưu trữ các loại nguồn chứng cứ thông thường hay không. Thiết nghĩ vấn đề này cần được quy định chặt chẽ bởi nó có liên hệ đến quyền con người, quyền công dân về quyền được đảm bảo bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín.
Thứ ba, chưa hoàn thiện quy định về xử lý, đánh giá chứng cứ.
Trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, nếu gặp những khó khăn, vướng mắc trong việc đánh giá chứng cứ là dữ liệu điện tử do ngoài các quy định tại các Điều 87, 88, 99, 107 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về thu thập phương tiện, dữ liệu điện tử thì chưa có các quy định chặt chẽ về quy trình thu giữ và phục hồi đối với loại chứng cứ này nhằm bảo vệ tính toàn vẹn của dữ liệu, giữ nguyên giá trị chứng cứ, quy định trách nhiệm của các cá nhân trong việc sử dụng, bảo quản loại chứng cứ đặc thù này. Do đó, để phục vụ công tác điều tra, giải quyết vụ án thì các quy định về dữ liệu điện tử còn tương đối ít, cần có sự hoàn thiện hơn và chi tiết hơn đối với quy trình khai thác và đánh giá nguồn chứng cứ đặc biệt này.
Tham khảo
– Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
– Thông tư liên tịch 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-TANDTC của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông.
– tapchitoaan.vn
– vksndtc.gov.vn
– lsvn.vn
– kiemsat.vn
KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:
[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng – Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.
[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.
[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com
[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:
Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …