Thông báo rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp chia thừa kế tài sản
1. Nội dung vụ án
Cụ Đinh Văn C và cụ Đỗ Thị M là vợ chồng, có 5 người con chung gồm: Ông Đinh Đạo D, bà Đinh Thị Q (bà Q đã chết, không có chồng con), ông Đinh Văn B, bà Đinh Thị Thu C và bà Đinh Thị L. Hai cụ không có con nuôi, con riêng nào khác. Cụ C chết năm 1988, cụ M chết năm 2008. Khi chết, hai cụ đều không để lại di chúc.
Tài sản chung của cụ C và cụ M gồm thửa đất 667, tờ bản đồ số 3b, diện tích 677m2 tại xã P, huyện, K, tỉnh N và 01 ngôi nhà cấp 4 trên đất (căn nhà này đã bị phá dỡ, hiện không còn).
Ngày 09/12/1998, ông Đinh Văn B đã được UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất 667, diện tích 677m2. Ngày 30/12/2013, ông B tách chia một phần thửa đất cho anh Đinh Sơn H (con trai của ông Đinh Đạo D) diện tích 89m2, anh H đã xây nhà 02 tầng rồi chuyển nhượng lại diện tích này cho vợ chồng em gái là anh Mai Bá T và chị Đinh Thị J, anh T chị J được UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CE757837 ngày 12/12/2016. Ngày 29/8/2012, ông B chuyển quyền sử dụng đất cho các con của ông B gồm anh Đinh Văn G với diện tích 86,2m2; anh Đinh Văn I với diện tích 88,5m2; anh Đinh Văn I với diện tích 83,8m2; anh Đinh Văn R với diện tích 88,2m2; các con của ông B sau khi nhận chuyển quyền sử dụng đã được UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2015, anh I và R đã chuyển nhượng lại diện tích đất trên cho anh Nguyễn Quang Y và vợ là chị Trần Thị Z; anh Y và chị Z đã được UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất nhận chuyển nhượng. Bà Đinh Thị Thu C đang sử dụng diện tích 114,1m2 (chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ và bản trích đo hiện trạng sử dụng đất ngày 12/12/2017 thì tổng diện tích thửa đất số 667, tờ bản đồ số 3b là 709,5m2.
Tại biên bản làm việc ngày 06/12/2018, UBND huyện K có ý kiến: Công nhận diện tích thực tế tăng so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông B là do đo đạc, đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch về quản ký đất đai.
Nay, bà L khởi kiện hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chia di sản thừa kế của cụ C và cụ M, đề nghị nhận diện tích 88,5m2 đất mà ông B đã cho anh O. Ông B không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà L.
2. Quyết định của Tòa án
Bản ản dân sự sơ thẩm số 05/2018/DS-ST ngày 21/12/2018 của TAND tỉnh N xử:
“1. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL706278 do UBND huyện K cấp ngày 07/9/2012 mang tên ông Đinh Văn O và bà Nguyễn Thị V và phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 274, cấp ngày 09/12/1998 mang tên ông Đinh Văn B, tại tờ bản đồ số 3b, số thửa 667 xã P, huyện K, tỉnh N.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đinh Thị L về chia di sản thừa kế của cụ Đinh Văn C và bà Đỗ Thị M và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
2. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Đinh Thị L, bà Đinh Thị Thu C, anh Đinh Sơn H về việc không nhận thêm diện tích đất mới, không nhận tiền thanh toán chênh lệch và giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất.
– Đình chỉ việc rút yêu cầu đối với khoản tiền công chăm sóc cha mẹ của bà Đinh Thị Thu C.
– Di sản thừa kế của cụ Đinh Văn C và cụ Đỗ Thị M là 709,5m2 đất tại tờ bản đồ số 3b, số thửa 667 (diện tích 677m2 theo bản đồ năm 2008 là tờ số 10) tại xã P, huyện K, tỉnh N cho các đồng thừa kế gồm ông Đinh Đạo D, ông Đinh Văn B, bà Đinh Thị L, bà Đinh Thị Thu C cụ thể như sau:
a. Chia cho ông Đinh Đạo D quyền sử dụng 92,4m2 đất tại thửa số 2, tờ bản đồ số 10 (phần diện tích đất này được B đã cho anh Đinh Sơn H, anh H đã chuyển nhượng cho anh Mai Văn T và chị Đinh Thị J, hiện mang tên anh Mai Văn T, chị Đinh Thị J theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CE757837 của UBND huyện K cấp ngày 12/12/2016).
b. Chia cho bà Đinh Thị L được quyền sử dụng 88,5m2 đất tại thửa số 5, tờ bản đồ số 10 (năm 2008) xã P, huyện K, tỉnh N. Thửa đất này trước đây ông B chuyển quyền sử dụng cho anh O.
c. Chia cho ông Đinh Văn B được quyền sử dụng 158,8m2 đất tại thửa đất số 4, tờ bản đồ số 10 (năm 2008) xã P, huyện K, tỉnh N.
d. Chia cho bà Đinh Thị Thu C được quyền sử dụng 114,1m2 đất tại thửa 3, tờ bản đồ số 10 (năm 2008) xã P, huyện K, tỉnh N.
– Anh Nguyễn Quang Y và chị Trần Thị Z được quyền sử dụng 2 thửa đất số 06 và 07 có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BV184340 cấp ngày 28/5/2015 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BV201530 do UBND huyện K cấp ngày 27/01/2015 (tờ bản đồ số 10 năm 2008).
– Anh Đinh Văn G được chuyển quyền sử dụng 83,8m2 đất tại thửa số 08, tờ bản đồ số 10 do mua lại của anh Đinh Văn I theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh Đinh Văn I số BL706289 do UBND huyện K cấp ngày 07/9/2012.
(Các thửa đất có sơ đồ cụ thể kèm theo bản án).
3. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, các đương sự có trách nhiệm liên hệ với UBND có thẩm quyền để kê khai đăng ký quyền sử dụng đất.”
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự và các vấn đề khác liên quan đến giải quyết vụ án.
Trong thời hạn luật định, bị đơn – ông B và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – anh O kháng cáo bản án sơ thẩm nêu trên.
Ngày 15/5/2020, TAND cấp cao tại Hà Nội đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án dân sự phúc thẩm số 63/2020/DS-PT ngày 15/5/2020 của TAND cấp cao tại Hà Nội quyết định: Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 05/2018/DS-ST ngày 21/12/2018 của TAND tỉnh N và chuyển hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh N để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
3. Vấn đề cần rút kinh nghiệm
Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm có những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, chưa tiến hành xác minh, thu thập đầy đủ, khách quan, toàn diện để làm cơ sở giải quyết vụ án mà tại cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, cụ thể như sau:
Thứ nhất, trong giai đoạn phúc thẩm, ông Đinh Văn B (bị đơn) và anh Đinh Văn O (người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan) xuất trình Trích lục bản đồ địa chính xã P lập năm 1984 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp ngày 28/11/2019 có nội dung: Thửa 667, tờ 3b, tỷ lệ 1/2000 mang tên chủ sử dụng đất ông (bà) S. Theo trích lục bản đồ địa chính lập năm 1984 do UBND xã P cung cấp cho TAND tỉnh N thể hiện: Tờ 3, thửa 667, tỷ lệ 1/2000 mang tên chủ sử dụng đất của ông Đinh Văn C. Tại Công văn số 112 ngày 19/11/2019 của UBND xã P thể hiện: Không có ai tên là S ở trên mảnh đất đó mà chỉ có ông C là bố của ông B; bản đồ năm 1984 xã P có 7 tờ gồm 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 và không có tờ a, b. Nhận thấy, nội dung tài liệu do đương sự cung cấp và do UBND xã P cung cấp không phù hợp và có sự mâu thuẫn về chủ sử dụng đất và tờ bản đồ. Do vậy, việc thu thập chứng cứ từ tài liệu, bản đồ địa chính xã P được lập năm 1984 chưa đảm bảo tính xác thực. Tòa án cấp cơ thẩm không thu thập chứng cứ, tài liệu do các cơ quan quản lý đất đai có thẩm quyền quản lý để giải quyết vụ án là thiếu sót, không đủ căn cứ để đánh giá toàn diện khách quan chứng cứ để giải quyết vụ án.
Thứ hai, trong giai đoạn phúc thẩm, anh Đinh Văn O cung cấp Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 347/HĐTCTS ngày 12/4/2017 ký kết giữa Ngân hàng X và anh Đinh Văn O, thế chấp quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL706278 để vay số tiền 300.000.000 đồng. Tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm, anh O chưa tất toán khoản vay với Ngân hàng X vẫn còn hiệu lực pháp luật. Quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm, TAND tỉnh N đã không đưa Ngân hàng X tham gia với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót. Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định chia cho bà L phần diện tích đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên anh Đinh Văn O đang thế chấp ngân hàng là vi phạm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự và Ngân hàng X.
Nguồn: Viện kiểm sát tòa án nhân dân tối cao