
TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả không chỉ là hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự quản lý kinh tế và uy tín của thị trường Việt Nam. Trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập sâu rộng, việc xử lý nghiêm khắc hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả không chỉ mang ý nghĩa răn đe mà còn thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc bảo vệ thị trường lành mạnh. Bài viết sau đây sẽ phân tích rõ các khía cạnh pháp lý của tội danh này theo quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), làm rõ về bản chất pháp lý, các dấu hiệu pháp lý đặc trưng và một số lưu ý trong thực tiễn áp dụng.
1. Phân loại các tội danh liên quan đến hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả
Bộ luật Hình sự 2015 chia tội sản xuất, buôn bán hàng giả thành bốn nhóm, căn cứ vào loại hàng hóa bị làm giả, cụ thể:
a) Điều 192: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (nhóm hàng hóa thông thường, không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194 và 195)
b) Điều 193: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm
c) Điều 194: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh
d) Điều 195: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi
2. Các yếu tố cấu thành tội phạm Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017)
Để một hành vi bị coi là tội phạm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì hành vi đó phải hội đủ bốn yếu tố cấu thành tội phạm: chủ thể, khách thể, mặt chủ quan, và mặt khách quan. Đây là những điều kiện bắt buộc nhằm phân biệt giữa hành vi vi phạm hành chính và hành vi phạm tội.
Theo Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, để cấu thành tội sản xuất, buôn bán hàng giả phải thỏa mãn 04 yếu tố sau:
a) Về mặt chủ thể:
Chủ thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả bao gồm cả cá nhân và pháp nhân thương mại:
– Đối với cá nhân: Người thực hiện hành vi phạm tội phải từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự, không thuộc các trường hợp mất năng lực theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Hình sự.
– Đối với pháp nhân thương mại: Theo Điều 75 và Điều 76 Bộ luật Hình sự, pháp nhân sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu có đầy đủ 03 điều kiện: (i) hành vi vi phạm do người có thẩm quyền nhân danh pháp nhân thực hiện; (ii) vì lợi ích của pháp nhân; và (iii) pháp nhân này có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Ví dụ, công ty sản xuất mỹ phẩm thuê xưởng gia công hàng loạt sản phẩm nhái thương hiệu lớn, phân phối ra thị trường nhằm thu lợi thì pháp nhân công ty này có thể bị truy tố theo Điều 192.
b) Về mặt khách thể:
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả xâm phạm đến hai nhóm quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ:
Thứ nhất, đây là hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, cụ thể là việc giám sát, điều tiết thị trường hàng hóa trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai, hành vi này trực tiếp ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, người sản xuất kinh doanh chân chính, đồng thời xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu công nghiệp, làm tổn hại uy tín, thương hiệu và giá trị tài sản của doanh nghiệp bị làm giả sản phẩm.
c) Về mặt chủ quan:
Tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm, biết rõ hàng hóa là hàng giả nhưng vẫn thực hiện vì mục đích trục lợi cá nhân hoặc lợi ích của pháp nhân.
Thông thường, động cơ của các hành vi này là vì lợi nhuận, trong đó người phạm tội cân nhắc giữa rủi ro pháp lý và lợi ích kinh tế có thể đạt được. Điều này lý giải vì sao hành vi buôn bán hàng giả thường được tổ chức tinh vi, có tính chuyên nghiệp và mang tính hệ thống.
d) Về mặt khách quan:
Hành vi khách quan cấu thành tội phạm tại Điều 192 gồm hai nhóm hành vi cụ thể:
(i) Sản xuất hàng giả: Đây là hành vi tạo ra các loại sản phẩm, hàng hóa giống hệt hoặc tương tự có khả năng làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn với nhãn hiệu, hàng hóa của cơ sở sản xuất, buôn bán khác đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền, hoặc đã được bảo hộ theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, bao gồm việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động chế tạo, chế bản, in, gia công, đặt hàng, sơ chế, chế biến, chiết xuất, tái chế, lắp ráp, pha trộn, san chia, sang chiết, nạp, đóng gói và hoạt động khác làm ra hàng giả.
(ii) Buôn bán hàng giả: Là hành vi đưa hàng giả vào lưu thông trên thị trường thông qua các hoạt động như: chào bán, bày bán, vận chuyển, bảo quản, xuất nhập khẩu… với mục đích thu lợi bất chính. Điều kiện để cấu thành hành vi “buôn bán hàng giả” là người thực hiện biết rõ đó là hàng giả.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì hàng giả bao gồm:
– Hàng hóa có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; hàng hoá không có giá trị sử dụng, công dụng hoặc có giá trị sử dụng, công dụng không đúng so với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký;
– Hàng hóa có ít nhất một trong các chỉ tiêu chất lượng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản hoặc định lượng chất chính tạo nên giá trị sử dụng, công dụng của hàng hóa chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với mức tối thiểu quy định tại quy chuẩn kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
– Thuốc giả theo quy định tại khoản 33 Điều 2 của Luật Dược năm 2016 và dược liệu giả theo quy định tại khoản 34 Điều 2 của Luật Dược năm 2016;
– Thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật không có hoạt chất; không có đủ loại hoạt chất đã đăng ký; có hoạt chất khác với hoạt chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa; có ít nhất một trong các hàm lượng hoạt chất chỉ đạt từ 70% trở xuống so với mức tối thiểu quy định tại quy chuẩn kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố áp dụng;
– Hàng hoá có nhãn hàng hoá hoặc bao bì hàng hoá ghi chỉ dẫn giả mạo tên, địa chỉ tổ chức, cá nhân sản xuất hoặc nhập khẩu, phân phối hàng hoá; giả mạo mã số đăng ký lưu hành, mã số công bố, mã số mã vạch của hàng hoá hoặc giả mạo bao bì hàng hóa của tổ chức, cá nhân khác; giả mạo về nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa hoặc nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa;
– Tem, nhãn, bao bì hàng hoá giả.
Lưu ý: Không phải mọi hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả đều bị xử lý hình sự. Chỉ khi hành vi thỏa mãn một trong các điều kiện sau đây thì mới cấu thành tội phạm:
(1) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 30 triệu đồng trở lên;
(2) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá dưới 30 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các Điều 188, 189, 190, 191, 193, 194, 195, 196 và 200 Bộ luật Hình sự hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Nếu hàng giả không thuộc vào nhóm đặt biệt đã được quy định thành tội danh riêng biệt tại BLHS, cụ thể: Tội sản xuất bán buôn Hàng giả là lương thực thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193); Tội sản xuất bán buôn Hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 194), Tội sản xuất bán buôn hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi (Điều 195) thì tùy hành vi cụ thể và hàng hóa phạm tội là gì mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo tội tương ứng theo quy định tại BLHS.
(iii) Hậu quả của hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả gây ra là những thiệt hại vật chất và phi vật chất cho xã hội như: tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, những thiệt hại về tài sản cho xã hội và những thiệt hại khác về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu công nghiệp của các doanh nghiệp, gây thiệt hại đến lợi ích vật chất, uy tín của doanh nghiệp có sản phẩm, hàng hóa bị người sản xuất, buôn bán hàng giả gây ra.
3. Hình phạt áp dụng đối với Tội sản xuất, buôn bán hàng giả
Tùy thuộc vào tính chất, mức độ vi phạm, giá trị hàng giả, hậu quả gây ra và yếu tố tái phạm, người thực hiện hành vi phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả có thể bị xử lý với các hình phạt từ phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn đến tù chung thân. Pháp luật cũng áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với pháp nhân thương mại thực hiện hành vi phạm tội này, cụ thể:
a) Khung một (khoản 1)
Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ các dấu hiệu cấu thành cơ bản nêu ở mặt khách quan.
b) Khung hai (khoản 2)
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Hàng giả trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;
e) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng trong trường hợp không xác định được giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;
g) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
h) Làm chết người;
i) Gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên;
k) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
l) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
m) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa và ngược lại;
n) Tái phạm nguy hiểm.
c) Khung ba (khoản 3)
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Hàng giả có giá thành sản xuất 100.000.000 đồng trở lên;
b) Hàng giả có giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn từ 200.000.000 đồng trở lên;
c) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên trong trường hợp không xác định được giá thành sản xuất, giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;
d) Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên;
đ) Làm chết 02 người trở lên;
e) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên, với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
g) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên;
h) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
d) Hình phạt bổ sung (khoản 4)
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
đ) Xử phạt pháp nhân (khoản 5)
Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng;
c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 6.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;
d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;
đ) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
4. Kết luận
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là hành vi nguy hiểm, xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự quản lý kinh tế và quyền lợi của người tiêu dùng. Bộ luật Hình sự 2015 đã có quy định rõ ràng, cụ thể để phân loại hành vi, điều kiện xử lý và khung hình phạt phù hợp với từng mức độ vi phạm. Việc áp dụng đúng các quy định này không chỉ góp phần bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật mà còn là công cụ hữu hiệu trong việc phòng ngừa và ngăn chặn hành vi làm giả hàng hóa trong thực tiễn.
KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:
[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng – Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.
[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.
[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com
[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:
Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …