14

Th6

KHỞI KIỆN CHIA DI SẢN THỪA KẾ KHI NGƯỜI BỊ KIỆN Ở NƯỚC NGOÀI

Trong thực tiễn xét xử các vụ án dân sự về chia di sản thừa kế, có không ít trường hợp người bị kiện (thường là người thừa kế khác) đang cư trú hoặc định cư ở nước ngoài. Việc khởi kiện trong tình huống này đặt ra nhiều vấn đề pháp lý phức tạp liên quan đến xác định thẩm quyền của tòa án Việt Nam, cách thức tống đạt văn bản tố tụng, áp dụng luật nội dung và luật hình thức trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Bài viết này sẽ phân tích rõ những vấn đề pháp lý phát sinh liên quan tranh chấp chia di sản thừa kế có bị đơn ở nước ngoài.

1. Luật áp dụng và quyền hưởng di sản của người thừa kế ở nước ngoài

Về luật áp dụng, theo quy định tại Điều 680 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

“Điều 680. Thừa kế

1. Thừa kế được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết.

2. Việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.”

Như vậy, nếu người để lại di sản có quốc tịch Việt Nam trước khi qua đời, hoặc nếu di sản là bất động sản tại Việt Nam (ví dụ như nhà, đất), thì pháp luật Việt Nam, cụ thể là Bộ luật Dân sự 2015 sẽ là pháp luật áp dụng để xác định việc chia thừa kế bất kể người thừa kế đang ở đâu hay mang quốc tịch gì.

Về quyền hưởng di sản, Điều 610 Bộ luật Dân sự 2015 quy định nguyên tắc: “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.” Như vậy, pháp luật Việt Nam không phân biệt người thừa kế là công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hay người nước ngoài, tất cả đều có quyền bình đẳng trong việc nhận di sản.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, một số cá nhân dù có tên trong hàng thừa kế nhưng có thể bị tước quyền hưởng di sản nếu thuộc các trường hợp quy định tại Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015. Ví dụ: Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản…. Nếu rơi vào các trường hợp này, thì dù đang cư trú ở đâu, trong hay ngoài nước thì người đó không được hưởng di sản thừa kế tại Việt Nam.

Ngoài ra, cần lưu ý riêng đối với quyền sử dụng đất thì hiện nay Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 44 Luật Đất đai 2024 quy định:

“3. Trường hợp tất cả người nhận thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất đều là người nước ngoài hoặc người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam quy định tại khoản 1 Điều này thì người nhận thừa kế không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất nhưng được chuyển nhượng hoặc được tặng cho quyền sử dụng đất thừa kế theo quy định sau đây:

a) Trong trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì bên chuyển nhượng trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là người nhận thừa kế;

b) Trong trường hợp tặng cho quyền sử dụng đất thì người được tặng cho phải là đối tượng được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 37 của Luật này và phù hợp với quy định của pháp luật về nhà ở, trong đó người nhận thừa kế được đứng tên là bên tặng cho trong hợp đồng hoặc văn bản cam kết tặng cho;

c) Trong trường hợp chưa chuyển nhượng hoặc chưa tặng cho quyền sử dụng đất thì người nhận thừa kế hoặc người đại diện theo ủy quyền bằng văn bản nộp hồ sơ về việc nhận thừa kế tại tổ chức đăng ký đất đai để cập nhật vào Sổ địa chính.”

Như vậy, người nước ngoài vẫn có thể được hưởng di sản là nhà, đất tại Việt Nam, nhưng chỉ được nhận dưới hình thức giá trị tài sản, chứ không được đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

2. Xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam khi bị đơn ở nước ngoài

Khi vụ án dân sự phát sinh yếu tố nước ngoài cụ thể là bị đơn đang cư trú, định cư hoặc sinh sống ở nước ngoài thì việc xác định đúng thẩm quyền của Tòa án Việt Nam là điều kiện bắt buộc để vụ án được thụ lý và giải quyết theo quy định.

Theo khoản 3 Điều 464 và khoản 1 Điều 470 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vụ án nếu di sản là bất động sản ở Việt Nam, bất kể đương sự có quốc tịch hay cư trú ở đâu.

Về cấp xét xử, căn cứ khoản 3 Điều 35 và Điều 37 BLTTDS 2015, Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.

Về thẩm quyền theo lãnh thổ, theo Điều 39 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015 về thẩm quyền Tòa án theo lãnh thổ, người khởi kiện có thể gửi hồ sơ khởi kiện đến:

– Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức.

– Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức.

– Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết.

Ngoài ra theo Điều 40 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015 người khởi kiện còn có thể lựa chọn Tòa án trong trường hợp:

– Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết;

– Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết;

– Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết

– Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các bất động sản giải quyết.

3. Không xác định được địa chỉ người bị kiện ở nước ngoài, có khởi kiện chia thừa kế được không?

Trong thực tiễn tố tụng dân sự, không ít trường hợp phát sinh tình huống người thừa kế đang cư trú hoặc định cư ở nước ngoài nhưng người khởi kiện không thể cung cấp chính xác địa chỉ nơi cư trú hiện tại của người này. Đây là một khó khăn phổ biến trong các vụ án chia di sản thừa kế có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật và hướng dẫn thực tiễn xét xử, Tòa án vẫn có thể giải quyết yêu cầu khởi kiện trong trường hợp không xác định được địa chỉ bị đơn ở nước ngoài, nếu người khởi kiện và Tòa án đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ chứng minh và xác minh theo trình tự pháp luật.

(i) Về nghĩa vụ cung cấp địa chỉ khi khởi kiện

Theo điểm c khoản 1 Điều 5 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao, quy định: Nếu người bị kiện là người nước ngoài, người Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài thì nơi cư trú của họ được xác định căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do người khởi kiện cung cấp hoặc theo tài liệu, chứng cứ do cơ quan có thẩm quyền cấp, xác nhận.

Như vậy, người khởi kiện không buộc phải cung cấp địa chỉ tuyệt đối chính xác, nhưng cần đưa ra được căn cứ hợp lý cho việc xác định nơi cư trú của người bị kiện để Tòa án có cơ sở tiến hành xác minh và ủy thác tư pháp. Việc cung cấp các thông tin từng biết về địa chỉ, thư từ, hộ chiếu, bản án cũ, hợp đồng hoặc thông tin do cơ quan ngoại giao hỗ trợ sẽ là cơ sở pháp lý để Tòa án tiếp tục thủ tục tố tụng.

(ii) Trường hợp không thể tống đạt vì không xác định được địa chỉ

Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, nếu không thể tống đạt văn bản tố tụng cho bị đơn vì địa chỉ không tồn tại, không chính xác hoặc không còn cư trú tại địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp, thì việc xử lý tiếp theo được thực hiện theo khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP:

a) Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở”. Trường hợp người bị kiện thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tổng đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

b) Trường hợp Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của bị đơn nhưng nguyên đơn không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Lưu ý theo điểm a khoản 3 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP, Tòa án vẫn tiếp tục giải quyết vụ án trong các trường  hợp: Vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thuộc diện thừa kế mà nguyên đơn không cung cấp được địa chỉ và Tòa án đã tiến hành các biện pháp để thu thập, xác minh địa chỉ theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn không xác định được địa chỉ của người đó thì Tòa án vẫn giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Phần tài sản mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thuộc diện thừa kế chưa tìm được địa chỉ được nhận thì Tòa án tạm giao cho người thân thích của người đó hoặc người thừa kế khác quản lý. Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thuộc diện thừa kế chưa tìm được địa chỉ sẽ được Tòa án giải quyết bằng một vụ án khác khi có yêu cầu.

Như vậy, Tòa án vẫn thụ lý và xét xử vụ án theo thủ tục chung. Phần di sản thuộc về người không rõ địa chỉ sẽ được tạm giao cho người thân thích đang sinh sống trong nước hoặc người đồng thừa kế khác quản lý, để sau này chuyển giao lại khi người vắng mặt xuất hiện và có yêu cầu.

(iii) Áp dụng Án lệ số 06/2016/AL

Vụ việc tương tự đã được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao ghi nhận và ban hành Án lệ số 06/2016/AL (về vụ án tranh chấp thừa kế có người thừa kế ở nước ngoài không rõ địa chỉ). Khát quát nội dung án lệ cụ thể như sau: “Trong vụ án tranh chấp thừa kế có người thuộc diện thừa kế ở nước ngoài, nếu Tòa án đã thực hiện ủy thác tư pháp, thu thập chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn không xác định được địa chỉ của những người đó thì Tòa án vẫn giải quyết yêu cầu của nguyên đơn; nếu xác định được di sản thừa kế, diện hàng thừa kế và người để lại di sản thừa kế không có di chúc thì giải quyết việc chia thừa kế cho nguyên đơn theo quy định của pháp luật; phần tài sản thừa kế của những người vắng mặt, không xác định được địa chỉ sẽ tạm giao cho những người sống trong nước quản lý để sau này giao lại cho những thừa kế vắng mặt.”

Như vậy theo Án lệ này, Tòa án có thể tiếp tục giải quyết vụ án chia di sản thừa kế trong trường hợp không xác định được địa chỉ của người thừa kế ở nước ngoài, với điều kiện Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng như ủy thác tư pháp và xác minh chứng cứ theo quy định pháp luật.

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

Tin tức liên quan