27

Th10

Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, việc kê khai sai doanh thu, ghi sổ kế toán không trung thực hoặc nộp thiếu thuế là những vi phạm thường gặp và dễ bị truy cứu trách nhiệm hình sư. Tuy cùng thuộc nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và đều liên quan đến lĩnh vực tài chính, kế toán, nhưng tội Trốn thuế và tội Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng lại là hai tội danh độc lập, khác nhau về chủ thể, hành vi khách quan, mục đích và hậu quả pháp lý.

Về chủ thể

(1) Tội Trốn thuế thì có thể là bất kỳ ai hoặc pháp nhân thương mại (Khoản 5 Điều 220 BLHS)

Cá nhân phạm tội là người từ đủ 16 tuổi trở lên. Tội phạm này là tội phạm nghiêm trọng, nên người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này trong bất cứ trường hợp nào

(2) Tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng thì chỉ áp dụng với người có chức vụ, quyền hạn, tức là những người được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý, điều hành công vụ hoặc nghiệp vụ kế toán, có thể hưởng lương hoặc không, được bổ nhiệm, bầu cử hay ký hợp đồng lao động.

Theo khoản 2 Điều 352 BLHS, thì người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ.

Người có chức vụ, quyền hạn nhưng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng thì cũng không phải là chủ thể của tội phạm này, ngược lại một người tuy không có chức vụ, quyền hạn nhưng đã cùng với người có chức vụ, quyền hạn để vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng thì cũng là chủ thể của tội phạm này với vai trò là đồng phạm với người có chức vụ, quyền hạn.

Nếu thiệt hại dưới 100.000.000 đồng, thì người phạm tội phải là người đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm quy định về kế toán chưa được xóa kỷ luật hoặc chưa được xóa quyết định xử phạt hành chính mà còn vi phạm, mới cấu thành tội “vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”.

Là người có chức vụ, quyền hạn nhưng chỉ những người từ đủ 16 tuổi trở lên và không thuộc tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại Điều  21 BLHS mới là chủ thể của tội phạm này, còn dưới 16 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì theo Điều khoản 2 Điều 12 BLHS thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của BLHS (không có Điều 221).

=> Khác biệt về chủ thể của hai tội này chính là: Tội trốn thuế hướng vào người có nghĩa vụ nộp thuế, còn tội vi phạm kế toán hướng vào có chức vụ quyền hạn. người được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý, điều hành công vụ hoặc nghiệp vụ kế toán.

Về khách thể:

(1) Tội trốn thuế xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế và nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước. Cụ thể là chế độ quản lý thuế và nghĩa vụ nộp thuế của tổ chức, cá nhân.

Hành vi trốn thuế làm suy giảm nguồn thu ngân sách, mất công bằng trong nghĩa vụ tài chính giữa các chủ thể kinh doanh, ảnh hưởng đến chính sách thuế quốc gia và trật tự công bằng xã hội.

(2) Tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng là tội xâm phạm đến lĩnh vực trật tự quản lý kinh tế, mà trực tiếp là xâm phạm đến quy định về chế độ kế toán.

Hành vi vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng làm mất tính trung thực của thông tin tài chính, ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát, giám sát hoạt động kinh tế, gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, Nhà nước hoặc bên thứ ba.

Về mặt khách quan

Thứ nhất, về mặt hành vi

(1) Tội “Trốn thuế” bao gồm 09 nhóm hành vi, tập trung vào các hành động che giấu, gian lận để không thực hiện nghĩa vụ thuế như:

– Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định của pháp luật;

– Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp;

– Không xuất hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hóa đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hóa, dịch vụ đã bán;

– Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn;

– Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn;

– Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này;

– Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này;

– Câu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hóa, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này;

– Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan quản lý thuế.

=> Bản chất của hành vi trốn thuế là Người phạm tội cố ý làm sai lệch thông tin, chứng từ, sổ sách hoặc khai báo gian dối để giảm, né, hoặc trì hoãn nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.

Các hành vi trên chỉ cấu thành tội phạm trốn thuế nếu thuộc một trong các trường hợp sau:

– Trốn thuế với số tiền từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng.

-Trốn thuế dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

(2) Tội Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng gồm những hành vi vi phạm các nguyên tắc, chuẩn mực và quy định về kế toán bao gồm các hành vi:

a) Giả mạo, khai man, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác giả mạo, khai man, tẩy xóa tài liệu kế toán;

b) Dụ dỗ, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác cung cấp, xác nhận thông tin, số liệu kế toán sai sự thật;

c) Để ngoài sổ kế toán tài sản của đơn vị kế toán hoặc tài sản liên quan đến đơn vị kế toán;

d) Huỷ bỏ hoặc cố ý làm hư hỏng tài liệu kế toán trước thời hạn lưu trữ quy định của Luật kế toán;

đ) Lập hai hệ thống sổ kế toán tài chính trở lên nhằm bỏ ngoài sổ kế toán tài sản, nguồn vốn, kinh phí của đơn vị kế toán.

=> Bản chất của hành vi Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng là lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong lĩnh vực kế toán để làm sai lệch thông tin tài chính, ảnh hưởng đến sự trung thực, minh bạch của báo cáo kế toán, gây thiệt hại về tài sản hoặc làm sai lệch công tác quản lý kinh tế.

Giữa hai tội này có một điểm dễ nhầm lẫn chính là hành vi: Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp (điểm b khoản 1 Điều 200) và hành vi để ngoài sổ kế toán tài sản của đơn vị kế toán hoặc tài sản liên quan đến đơn vị kế toán (Điểm c khoản 1 Điều 221):

Hành vi “không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp” (điểm b khoản 1 Điều 200 BLHS) là hành vi gian dối nhằm trốn thuế, tức là người nộp thuế cố tình không ghi nhận doanh thu, khoản thu phát sinh để giảm nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, gây thất thu ngân sách. Trong khi đó, hành vi “để ngoài sổ kế toán tài sản của đơn vị kế toán hoặc tài sản liên quan đến đơn vị kế toán” (điểm c khoản 1 Điều 221 BLHS) là hành vi vi phạm chế độ kế toán, thường do người có chức vụ, quyền hạn trong lĩnh vực kế toán, tài chính thực hiện nhằm che giấu tình hình tài chính thật, giấu nguồn vốn, hàng hóa, công nợ hoặc tài sản, qua đó làm sai lệch báo cáo tài chính hoặc che đậy hành vi biển thủ, thất thoát. Như vậy, điểm khác biệt cốt lõi là tội trốn thuế hướng đến việc trốn nghĩa vụ tài chính với Nhà nước, còn tội vi phạm quy định về kế toán hướng đến việc xâm phạm tính trung thực, minh bạch của sổ sách kế toán và quản lý tài sản.

Thứ hai, về động cơ, mục đích

(1) Đối với tội trốn thuế:

Động cơ và mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, nhưng trên thực tế, người phạm tội luôn có động cơ vụ lợi, mong muốn thu lợi bất chính bằng cách không nộp thuế, nộp thiếu thuế hoặc làm tăng số thuế được miễn, giảm, khấu trừ, hoàn. Mục đích trực tiếp của hành vi là tránh nghĩa vụ tài chính với Nhà nước, gây thiệt hại cho ngân sách.

(2) Đối với tội Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng:

Mục đích của tội này là vi phạm quy định kế toán, không nhất thiết là trốn thuế, mà có thể xuất phát từ nhiều động cơ khác nhau như che giấu thất thoát, che đậy sai phạm trong quản lý tài chính, tạo lợi thế cá nhân, làm đẹp báo cáo tài chính hoặc bảo vệ hình ảnh đơn vị. Điểm chung là người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc vị trí kế toán để làm sai lệch thông tin tài chính, xâm phạm tính trung thực, minh bạch của hoạt động kế toán, qua đó gây hậu quả nghiêm trọng cho tổ chức, Nhà nước hoặc bên liên quan.

Thứ ba, về hậu quả

(1) Tội Trốn thuế thì hậu quả bắt buộc phải thể hiện bằng số tiền thuế đã trốn, tức là khoản thuế mà người phạm tội có nghĩa vụ nộp nhưng cố tình không nộp hoặc nộp thiếu.

Cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh rõ số thuế trốn được và đạt mức tối thiểu từ 100 triệu đồng trở lên, hoặc dưới 100 triệu đồng nhưng đã từng bị xử phạt hành chính hoặc kết án về hành vi tương tự mà chưa được xóa án tích. Như vậy, thiệt hại ngân sách Nhà nước chính là hậu quả pháp lý trực tiếp và là cơ sở xác định mức độ nguy hiểm của hành vi trốn thuế.

(2) Tội Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng

Hậu quả cuae tội này không tính theo số tiền thuế trốn, mà tính theo mức độ thiệt hại do hành vi sai phạm kế toán gây ra. Hậu quả có thể là thiệt hại vật chất (như thất thoát tiền, tài sản, nguồn vốn, kinh phí của đơn vị) hoặc thiệt hại phi vật chất (như làm sai lệch báo cáo tài chính, gây rối loạn hoạt động kiểm toán, làm mất khả năng kiểm soát tài chính, ảnh hưởng đến uy tín tổ chức). Do đó, trong tội này, thiệt hại về tài sản hoặc hậu quả quản lý kinh tế là yếu tố bắt buộc phải chứng minh, còn việc trốn hay không trốn thuế chỉ là hệ quả gián tiếp.

Mặt chủ quan

(1) Tội trốn thuế

Người phạm tội nhận thức rõ nghĩa vụ nộp thuế của mình, biết hành vi không kê khai, kê khai sai hoặc sử dụng chứng từ gian dối là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện để chiếm đoạt khoản tiền thuế đáng lẽ phải nộp cho Nhà nước. Hành vi này thể hiện lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra nhằm đạt được lợi ích vật chất, cụ thể là làm giảm hoặc xóa bỏ nghĩa vụ thuế của mình, gây thiệt hại cho ngân sách.

(2) Tội Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng

Cũng được thực hiện với lỗi cố ý, nhưng không nhất thiết xuất phát từ mục đích chiếm đoạt tiền thuế. Người phạm tội biết rõ hành vi của mình (như giả mạo chứng từ, lập hai hệ thống sổ sách, hủy tài liệu kế toán) là vi phạm quy định về kế toán, có thể gây thiệt hại cho đơn vị hoặc Nhà nước, nhưng vẫn thực hiện vì động cơ vụ lợi, che giấu sai phạm, tạo lợi thế cá nhân hoặc làm sai lệch thông tin tài chính.

Về hình phạt

(1) Đối với tội trốn thuế

Theo Điều 200 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung bởi khoản 47 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 thì hình phạt chính có thể là phạt tiền hoặc phạt tù tối đa đến 7 năm tù đối với cá nhân;

Phạt tiền đến 10 tỷ đồng đối với tổ chức, đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc đình chỉ vĩnh viễn.

(2) Đối với tội Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng

Theo Điều 221 Bộ luật Hình sự 2015 được bổ sung bởi điểm k khoản 1 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 và có một số thuật ngữ bị bãi bỏ bởi điểm đ khoản 3 Điều 2 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 , hình phạt chính của tội vi phạm quy định về kế toán là cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù tối đa đến 20 năm.

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

 

Tin tức liên quan