17

Th11

SỔ ĐỎ CHỈ GHI TÊN VỢ HOẶC CHỒNG CÓ ĐƯỢC XEM LÀ TÀI SẢN CHUNG?

Thực tế cho thấy có rất nhiều trường hợp Sổ đỏ là tài sản chung của vợ chồng nhưng lại chỉ ghi tên một trong hai người (chỉ ghi tên vợ hoặc tên chồng). Điều này khiến nhiều người hiểu lầm rằng “đứng tên một mình” đồng nghĩa tài sản riêng. Tuy nhiên, pháp luật hôn nhân và gia đình lại không xác định tài sản chung hay riêng dựa vào tên ghi trên Sổ đỏ, mà căn cứ vào nguồn gốc hình thành tài sản, thời điểm tạo lập và chứng cứ chứng minh.

1. Quy định về tài sản chung – tài sản riêng của vợ chồng

1.1. Tài sản chung vợ chồng

Tài sản chung được quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Theo đó, tài sản chung của vợ chồng bao gồm:

“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3.Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”

Theo Điều 9 của Nghị định 126/2014/NĐ-CP, thu nhập hợp pháp khác của vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân bao gồm:

1. Khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 11 của Nghị định này.

2.Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước.

3.Thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.”

Ngoài ra, Điều 10 của Nghị định 126/2014/NĐ-CP giải thích về hoa lợi và lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ và chồng như sau:

1. Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là sản vật tự nhiên mà vợ, chồng có được từ tài sản riêng của mình.

2. Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là khoản lợi mà vợ, chồng thu được từ việc khai thác tài sản riêng của mình.”

Như vậy: bất kỳ tài sản nào hình thành trong thời kỳ hôn nhân (trừ khi bên cho rằng đó là tài sản riêng thì phải chứng minh được là tài sản riêng) đều được coi là tài sản chung bao gồm: tài sản tiền lương, lợi nhuận và cả các khoản hoa lợi, lợi tức hoặc thu nhập hợp pháp khác phát sinh trong thời kỳ hôn nhân dù tài sản gốc là tài sản riêng của vợ hoặc chồng.

1.2.  Tài sản riêng vợ chồng

Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014  quy định về tài sản riêng của vợ và chồng bao gồm:

“1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này”

Bên cạnh đó, Điều 11 của Nghị định số 126/2014/NĐ-CP còn quy định rõ về tài sản riêng khác của vợ và chồng theo quy định của pháp luật như sau:

1. Quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ.

2. Tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác.

3. Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng.”

Đặc biệt, khoản 3 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 có quy định: “Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.

Như vậy, tài sản riêng của vợ chồng là những tài sản được hình thành trước thời kỳ hôn nhân hoặc trong thời kỳ hôn nhân chứng minh rõ nguồn gốc, quá trình hình thành và mục đích sử dụng của tài sản là của riêng như tặng cho riêng, thừa kế riêng…. Trong trường hợp không có căn cứ xác định đó là tài sản riêng, tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân sẽ được xem là tài sản chung, bên nào cho rằng đó là tài sản riêng thì bên đó có nghĩa vụ chứng minh đó là tài sản riêng.

2. Sổ đỏ đứng tên một người là tài sản chung hay riêng

Căn cứ theo quy định trên, có thể thấy, sổ đỏ chỉ đứng tên một mình vợ hoặc một mình chồng là tài sản chung hay tài sản riêng, không thể chỉ nhìn vào “tên trên Sổ đỏ”, mà trước hết phải xem xét nguồn gốc hình thành của quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở đó.

Nếu bất động sản được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân bằng tiền, thu nhập chung của vợ chồng (ví dụ: tiền lương, tiền kinh doanh, tiền tiết kiệm chung) thì theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình, đây là tài sản chung của vợ chồng, dù trên Sổ đỏ chỉ ghi tên một người.

Ngược lại, nếu bất động sản được hình thành từ tài sản riêng hợp pháp của một bên, chẳng hạn như được cha mẹ, người thân tặng cho riêng, được thừa kế riêng, hoặc được mua bằng nguồn tiền riêng đã chứng minh được (như tiền bán tài sản riêng trước hôn nhân, tiền được tặng cho riêng, thừa kế riêng…), thì bất động sản đó được xác định là tài sản riêng của người đứng tên.

Trong trường hợp có tranh chấp, người cho rằng bất động sản là tài sản riêng của mình có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ chứng minh nguồn gốc riêng đó. Nếu không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh đây là tài sản riêng thì theo khoản 3 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: “Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.

Khi phát sinh giao dịch liên quan đến nhà, đất mà Sổ đỏ chỉ ghi tên một người, về mặt pháp lý, việc xác lập, thực hiện giao dịch phải tuân theo quy định về đại diện giữa vợ và chồng tại Luật Hôn nhân và Gia đình:

“Điều 26. Đại diện giữa vợ và chồng trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng

Việc đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 24 và Điều 25 của Luật này.

Trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật này thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi.

“Điều 24. Căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng

1.Việc đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch được xác định theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2.Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.

3.Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan.

Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ lut dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn.”

“Điều 25. Đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh

1. Trong trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung thì vợ, chồng trực tiếp tham gia quan hệ kinh doanh là người đại diện hợp pháp của nhau trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước khi tham gia quan hệ kinh doanh, vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc Luật này và các luật liên quan có quy định khác.

2. Trong trường hợp vợ, chồng đưa tài sản chung vào kinh doanh thì áp dụng quy định tại Điều 36 của Luật này.

Như vậy, theo khoản 1 Điều 24 Luật hôn nhân gia đình năm 2014: “Việc đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch được xác định theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.”. Theo đó, Bộ luật dân sự có quy định về chế định “đại diện” tại chương IV Bộ luật dân sự năm 2015, quan hệ đại diện vợ chồng cũng thuộc quan hệ đại diện trong dân sự, nên cũng phải tuân thủ quy định về đại diện trong Bộ luật dân sự. Theo đó, Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện, tức nếu vợ uỷ quyền cho chồng đứng tên trên sổ đỏ thì chồng chỉ được phép đứng tên chứ không được thay mặt vợ bán tài sản mà không được sự đồng ý của vợ. Nếu người đứng tên trên sổ tự ý bán tài sản vợ chồng do một người đứng tên, thì giao dịch đó sẽ chịu hậu quả pháp lý theo quy định tại Điều 142 BLDS năm 2015.

“Điều 142. Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện

1. Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:

a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch;

b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;

c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện.

2. Trường hợp giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện thì người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch.

3. Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đã xác lập và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.

4. Trường hợp người không có quyền đại diện và người đã giao dịch cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.”

Luật đất đai cũng có quy định về vấn đề này tại Khoản 4 Điều 135 Luật đất đai như sau:

“4. Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng thì phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp vợ và chồng có thỏa thuận ghi tên một người để đứng tên làm đại diện cho vợ và chồng. Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng mà Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đã cấp chỉ ghi họ, tên của vợ hoặc chồng thì được cấp đổi sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất để ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng nếu có yêu cầu.”

Bên cạnh đó, tại Điều 34 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cũng thể hiện: “Nếu nhà, đất là tài sản chung vợ chồng thì Sổ đỏ phải có tên của cả hai vợ chồng trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

Như vậy, trong trường hợp nếu hai vợ chồng thỏa thuận được với nhau thì có thể chọn chỉ ghi tên 01 người trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) chứ không bắt buộc lúc nào cũng phải ghi tên của hai vợ chồng trên sổ đỏ.

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

Tin tức liên quan