13

Th10

ĐIỀU KIỆN ĐỂ MỘT GIAO DỊCH DÂN SỰ CÓ HIỆU LỰC

Trong đời sống thực tiễn, các giao dịch như mua bán, tặng cho, vay mượn, chuyển nhượng, thuê, thế chấp… diễn ra hằng ngày và là phương tiện pháp lý để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ giữa các bên. Tuy nhiên, không phải mọi hợp đồng được ký kết đều mặc nhiên có hiệu lực pháp luật. Một giao dịch chỉ được pháp luật công nhận khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện về chủ thể, ý chí, nội dung và hình thức theo quy định.

I. GIAO DỊCH DÂN SỰ LÀ GÌ?

Theo quy định tại Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015 BLDS 2015: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”

Trong đó, theo Điều 385 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”

Về hành vi pháp lý đơn phương thì Luật khoogn có định nghĩa vụ thể, tuy nhiên trên thực tế có thể hiểu là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của một bên chủ thể nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình hoặc bên còn lại trong quan hệ. Ví dụ, việc một người lập di chúc định đoạt tài sản của mình sau khi chết là hành vi pháp lý đơn phương.

Như vậy, có thể hiểu giao dịch dân sự là hành vi pháp lý thể hiện ý chí của một hoặc nhiều chủ thể trong quan hệ dân sự, nhằm hướng đến việc làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Nói cách khác, giao dịch dân sự chính là “cầu nối pháp lý” giữa ý chí của con người và hậu quả pháp lý mà pháp luật công nhận.

II. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ

Điều 122 BLDS 2015: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”. Điều này có nghĩa là, để một giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật, phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo Điều 117 BLDS 2015, bao gồm:

Thứ nhất, chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập

Chủ thể của giao dịch dân sự là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác hoặc các chủ thể khác có tư cách pháp lý theo quy định của pháp luật dân sự. Mỗi loại chủ thể có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự khác nhau, trong đó:

(i) Đối với cá nhân

Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.[1]

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.[2]

Giao dịch dân sự do cá nhân xác lập chỉ có hiệu lực nếu phù hợp với mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân được quy định từ Điều 16 đến Điều 21 tại BLDS 2015:

– Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ[3], trừ trường hợp họ bị toà án tuyên bố mất năng lực hành vi, khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vit hoặc hạn chế năng lực hành vi. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được toàn quyền xác lập mọi giao dịch dân sự.

– Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.[4]

– Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.[5]

– Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.[6]

(ii) Đối với pháp nhân:

Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự, phát sinh từ thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký và chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.[7]

Pháp nhân tham gia vào giao dịch dân sự thông qua người đại diện của họ (đại diện theo pháp luật, theo uỷ quyền). Người đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhân danh người được đại diện. Các quyền, nghĩa vụ do người đại diện xác lập làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân. Tuy nhiên pháp nhân chỉ tham gia các giao dịch dân sự phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình. Người đại diện xác lập giao dịch dân sự làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân trong phạm vi nhiệm vụ của chủ thể đó được điều lệ hoặc pháp luật quy định.

Thứ hai, chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện

Việc tham gia hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự được quy định tại Khoản 2 Điều 3 BLDS 2015, cụ thể: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận….”

Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí bên trong và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài. Một giao dịch chỉ được coi là hợp pháp khi ý chí thật sự của chủ thể trùng khớp với hành vi thể hiện ra ngoài, tức là không có sự cưỡng bức, lừa dối, hay sai lệch trong nhận thức. Khi ý chí bị bóp méo hoặc thể hiện không đúng thực tế, giao dịch có thể bị tuyên vô hiệu theo Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015. Nếu giao dịch dân sự có yếu tố giả tạo thì cũng vô hiệu theo Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015. Nếu nhầm lẫn thì sẽ bị vô hiệu theo Điều 126 Bộ luật Dân sự 2015.

Thứ ba, mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội

Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó, còn nội dung của giao dịch là tổng hợp các điều khoản mà các bên cam kết, thỏa thuận với nhau về đối tượng, quyền, nghĩa vụ, giá cả, thời gian, phương thức thực hiện. Hai yếu tố này có mối quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau: con người chỉ xác lập giao dịch khi có mục đích cụ thể, và để đạt được mục đích đó, họ phải thỏa thuận về nội dung; ngược lại, những thỏa thuận về nội dung chỉ có ý nghĩa khi nhằm đạt được một mục đích hợp pháp. Ví dụ, trong hợp đồng mua bán nhà ở, mục đích của bên mua là có được quyền sở hữu nhà, còn mục đích của bên bán là nhận được tiền thanh toán. Để đạt được hai mục đích này, họ phải thỏa thuận các điều khoản cụ thể về giá, thời hạn thanh toán, nghĩa vụ giao nhận nhà, quyền và trách nhiệm của các bên.

Pháp luật dân sự cho phép các chủ thể tự do giao kết, thỏa thuận, nhưng sự tự do đó chỉ có giá trị trong khuôn khổ của pháp luật và đạo đức xã hội. Nếu một giao dịch được xác lập với mục đích trái luật hoặc phi đạo đức, giao dịch đó sẽ vô hiệu bị vô hiệu dù các bên tự nguyện thỏa thuận, không bị lừa đối, cưỡng ép và đáp ứng điều kiện về năng lực chủ thể nêu trên.

Thứ tư, hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định

Hình thức của giao dịch dân sự là phương tiện thể hiện ý chí của các bên trong việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Điều 119 BLDS 2015 quy định về hình thức giao dịch dân sự như sau:

“1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.

Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.

2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.”

Như vậy, giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Người xác lập giao dịch dân sự có quyền lựa chọn hình thức của giao dịch dân sự đó. Chỉ trong một số trường hợp đặc biệt thì pháp luật mới có yêu cầu về hình thức buộc các chủ thể phải tuân thủ theo (yêu cầu phải lập thành văn bản, phải có chứng nhận, chứng thực, đăng ký, xin phép). Trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải được công chứng nhà nước chứng nhận, được chứng thực, đăng ký hoặc phải xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.

II. CÁC TRƯỜNG HỢP GIAO DỊCH DÂN SỰ BỊ VÔ HIỆU

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, từ Điều 123 đến Điều 130, pháp luật liệt kê cụ thể các trường hợp mà giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu như sau:

(1) Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

Điều 123 BLDS 2015 quy định rõ: “Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.” , trong đó Điều 123 BLDS cũng giải thích rõ:

(i) Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.

Ví dụ: Điều 22 Pháp lệnh Ngoại hối năm 2013 quy định “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo, báo giá, định giá, ghi giá trong hợp đồng, thỏa thuận và các hình thức tương tự khác của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các trường hợp được phép theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Như vậy, trường hợp các bên giao kết hợp đồng vay, hoặc hợp đồng mua bán tài sản… mà có thỏa thuận thanh toán bằng ngoại hối sẽ bị tuyên bố vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật về giao dịch ngoại hối.

(ii) Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

Trái đạo đức xã hội là đi ngược lại những chuẩn mực ứng xử chung, giá trị đạo đức được cộng đồng thừa nhận. Ví dụ, “hợp đồng tình ái”, theo đó một bên trả tiền hoặc tài sản để đổi lấy tình dục là trái đạo đức nên thuộc trường hợp bị vô hiệu.

(2) Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

Điều 124 BLDS 2015 quy định:

“1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.”

Như vậy, giao dịch dân sự giả tạo là giao dịch được các bên cố ý xác lập “trên danh nghĩa” nhưng không phản ánh đúng ý chí, mục đích thật sự của họ, mà nhằm che giấu một giao dịch khác hoặc trốn tránh nghĩa vụ với người khác. Bản chất của loại giao dịch này là sự không thống nhất giữa ý chí bên trong và sự thể hiện ý chí ra bên ngoài, khiến cho hình thức pháp lý của giao dịch không phản ánh đúng bản chất quan hệ mà các bên hướng tới, những trường hợp xác lập giao dịch dân sự có yếu tố giả tạo sẽ bị vô hiệu.

Ví dụ, để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ, ông A bán căn nhà cho người thân là bà B với giá tượng trưng 100 triệu đồng, trong khi giá trị thật của căn nhà là 5 tỷ đồng. Hợp đồng được công chứng, sang tên nhưng thực tế không có việc giao tiền và không có ý định chuyển quyền sở hữu thật sự. Trong tình huống này, hợp đồng mua bán là giao dịch giả tạo sẽ bị tuyên vô hiệu theo khoản 2 Điều 124 BLDS.

(3) Giao dịch dân sự  vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện

Theo quy định của BLDS 2015, năng lực hành vi dân sự là điều kiện tiên quyết để cá nhân có thể xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ trong quan hệ dân sự. Do đó, một giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực khi người tham gia có năng lực hành vi phù hợp với nội dung giao dịch. Ngược lại, nếu người tham gia thuộc nhóm chủ thể bị hạn chế hoặc không có năng lực hành vi, thì giao dịch có thể bị tuyên vô hiệu nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ.

Thứ nhất, về các nhóm chủ thể có năng lực hành vi bị hạn chế hoặc chưa đầy đủ, BLDS 2015 quy định như sau:

– Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi (Khoản 1 Điều 21 BLDS 2015)

– Người mất năng lực hành vi dân sự là người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi mà theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần (Điều 22 BLDS 2015).

– Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự mà theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ (Điều 23 LDS 2015).

– Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình mà theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện (Điều 24 LDS 2015).

Thứ hai, về hệ quả pháp lý khi các chủ thể này tự xác lập giao dịch

Điều 125 BLDS 2015 quy định Giao dịch dân sự bị vô hiệu khi giao dịch dân sự do những đối tượng trên xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý.

Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định một số ngoại lệ, tức là trong những trường hợp sau đây hợp đồng vẫn có hiệu lực:

+ Giao dịch dân sự  của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;

+ Giao dịch dân sự  chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;

+ Giao dịch dân sự  được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

Ví dụ: Một người 15 tuổi tự ý ký hợp đồng bán chiếc xe máy SH của gia đình với giá 40 triệu đồng mà không có sự đồng ý của cha mẹ. Đây là giao dịch vượt quá phạm vi “nhu cầu thiết yếu hằng ngày” và theo quy định phải có sự chấp thuận của người đại diện. Do đó, nếu cha mẹ yêu cầu, Tòa án sẽ tuyên hợp đồng vô hiệu, buộc bên mua trả lại xe và bên bán (người chưa thành niên) trả lại số tiền đã nhận. Ngược lại, nếu người này sau khi đủ 18 tuổi xác nhận rằng việc bán xe là tự nguyện, không bị ép buộc và muốn tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, thì giao dịch có thể được coi là có hiệu lực.

(4) Giao dịch dân sự  vô hiệu do bị nhầm lẫn

Điều 126 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.” Tuy nhiên, trong cùng điều luật cũng nêu rõ: “Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.”

Như vậy, “nhầm lẫn” được hiểu là sự sai lệch giữa ý chí thực sự và sự biểu hiện ra bên ngoài của một hoặc cả hai bên khi xác lập giao dịch, khiến họ hiểu sai về đối tượng, chủ thể, tính chất, giá trị hoặc nội dung cơ bản của giao dịch, từ đó không đạt được mục đích mong muốn. Bản chất của quy định này là nhằm bảo vệ tự do ý chí và tính trung thực trong giao kết, vì một giao dịch chỉ có giá trị khi sự thể hiện ý chí phản ánh đúng nhận thức và mong muốn thật sự của các bên.

Tuy nhiên, không phải mọi sự nhầm lẫn đều dẫn đến vô hiệu. Chỉ khi sự nhầm lẫn mang tính nghiêm trọng, làm cho bên tham gia không đạt được mục đích xác lập giao dịch, thì mới đủ điều kiện để tuyên vô hiệu. Ngược lại, nếu sự nhầm lẫn không làm thay đổi bản chất hoặc mục đích của giao dịch, hoặc các bên có thể khắc phục được ngay, thì giao dịch vẫn có hiệu lực.

(5) Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép

Điều 127 BLDS 2015 quy định: Khi một bên tham gia Giao dịch dân sự  do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố Giao dịch dân sự  đó là vô hiệu. Trong đó:

– Lừa dối trong Giao dịch dân sự  là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của Giao dịch dân sự  nên đã xác lập giao dịch đó.

Ví dụ: Ông A bán cho ông B một chiếc xe hơi “nhập khẩu chính hãng” với giá 2 tỷ đồng, kèm giấy tờ giả chứng minh xuất xứ. Sau khi mua, ông B phát hiện xe chỉ là hàng lắp ráp trong nước, giá trị thực chưa đến 1 tỷ. Ở đây, ông A đã cố ý gian dối về tính chất và nguồn gốc của đối tượng hợp đồng, làm cho ông B hiểu sai và ký kết giao dịch. Giao dịch này bị vô hiệu do lừa dối.

Tuy nhiên, cần phân biệt giữa lừa dối và sai sót thông thường trong giao dịch. Nếu bên bán không cố ý che giấu thông tin, và bên mua có đủ điều kiện để kiểm tra, nhưng vẫn không làm (ví dụ: không kiểm tra hàng hóa, không đọc kỹ hợp đồng), thì không được coi là bị lừa dối mà chỉ là thiếu cẩn trọng. Trong trường hợp này, giao dịch vẫn có hiệu lực.

– Đe dọa, cưỡng ép trong Giao dịch dân sự  là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện Giao dịch dân sự  nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.

Ví dụ: Ông C nợ ông D 500 triệu đồng. Ông D đe dọa “nếu không ký hợp đồng chuyển nhượng căn nhà, tôi sẽ cho người hành hung anh.” Vì sợ hãi, ông C buộc phải ký hợp đồng chuyển nhượng nhà cho ông D. Đây là hành vi cưỡng ép, làm mất đi sự tự nguyện trong giao dịch, nên hợp đồng bị tuyên vô hiệu do bị cưỡng ép.

(6) Giao dịch dân sự  vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình

Điều 128 BLDS 2015 quy định: “Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập hợp đồng vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố Giao dịch dân sự  đó là vô hiệu.”

Quy định này nhằm bảo vệ nguyên tắc tự do, tự nguyện và sáng suốt khi xác lập giao dịch, bởi bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí bên trong và sự biểu hiện ra bên ngoài của chủ thể. Khi một người không nhận thức được hành vi của mình tại thời điểm giao kết, thì dù họ có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo pháp luật, ý chí thể hiện trong giao dịch không còn giá trị pháp lý, vì nó không phải là sự thể hiện của ý chí thực sự.

Ví dụ: Ông A tham dự một buổi tiệc, uống quá nhiều rượu đến mức say xỉn, mất tỉnh táo và không nhận thức được hành vi của mình. Lợi dụng lúc này, một người bạn đưa hợp đồng bán xe ô tô để ông A ký. Sau khi tỉnh rượu, ông A phát hiện hợp đồng ghi giá bán chỉ bằng một nửa giá trị thực tế của xe. Trong trường hợp này, nếu ông A chứng minh được rằng tại thời điểm ký hợp đồng, mình không còn khả năng nhận thức và làm chủ hành vi, thì Tòa án có thể tuyên hợp đồng vô hiệu theo Điều 128 BLDS 2015.

(7) Giao dịch dân sự  vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

Khoản 2 Điều 117 quy định: “Hình thức của giao dịch dân sự cũng là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”.

Căn cứ theo Điều 129 BLDS 2015: Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:

(i) Giao dịch dân sự  đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.

(ii) Giao dịch dân sự  đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

Ví dụ: Ông C và bà D ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trị giá 2 tỷ đồng, lập thành văn bản nhưng không công chứng theo quy định của Luật Đất đai. Bà D đã thanh toán 1,6 tỷ đồng (80% giá trị hợp đồng) và ông C đã bàn giao đất, bàn giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản gốc. Trong trường hợp này, hợp đồng không thể bị tuyên vô hiệu do các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch.

(8) Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được

Ngoài các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều từ Điều 123 đến Điều 129 BLDS 2015, Điều 408 Bộ luật Dân sự năm 2015 còn quy định một căn cứ đặc thù khiến hợp đồng bị tuyên vô hiệu, đó là hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được ngay từ thời điểm giao kết, cụ thể:

“1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.

Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được.

Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực.”

Như vậy, quy định này làm rõ rằng, đối tượng của hợp đồng  tức là vật, quyền, nghĩa vụ hoặc công việc mà các bên cam kết thực hiện phải tồn tại và có khả năng thực hiện được tại thời điểm giao kết. Nếu đối tượng đó không tồn tại hoặc không thể thực hiện được ngay từ đầu, thì hợp đồng sẽ vô hiệu tuyệt đối, bởi nó thiếu điều kiện cơ bản về khả năng thực hiện nghĩa vụ.

Ví dụ: Ông A ký hợp đồng bán cho bà B một thửa đất tại phường X, nhận tiền đặt cọc 500 triệu đồng. Tuy nhiên, thửa đất này đã bị Nhà nước thu hồi theo quyết định có hiệu lực trước ngày ký hợp đồng, và ông A biết rõ điều này nhưng cố tình không thông báo cho bà B. Trong trường hợp này, đối tượng hợp đồng là quyền sử dụng đất không còn tồn tại hợp pháp, nên hợp đồng bị tuyên vô hiệu. Đồng thời, vì ông A biết rõ sự việc mà vẫn cố ý giao kết, nên ông A phải bồi thường thiệt hại cho bà B theo quy định tại khoản 2 Điều 408 BLDS 2015.

III. HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU

Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu được quy định cụ thể tại Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015). Theo đó, khi một giao dịch bị tuyên vô hiệu, pháp luật không chỉ coi giao dịch đó không có giá trị pháp lý mà còn xác định rõ trách nhiệm của các bên trong việc khôi phục tình trạng ban đầu, hoàn trả và bồi thường thiệt hại nếu có, cụ thể:

Thứ nhất, giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên

Theo khoản 1 Điều 131 BLDS 2015, kể từ thời điểm giao dịch được xác lập, nếu giao dịch đó bị tuyên vô hiệu thì coi như chưa từng tồn tại về mặt pháp lý. Mọi quyền và nghĩa vụ được xác lập trên cơ sở giao dịch đó đều không được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Ví dụ: A ký hợp đồng bán xe ô tô cho B nhưng hợp đồng này bị tuyên vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật. Khi đó, mọi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng (như quyền sở hữu xe, nghĩa vụ thanh toán tiền…) đều không có giá trị pháp lý.

Thứ hai, nghĩa vụ khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận

Khoản 2 Điều 131 BLDS quy định, khi giao dịch vô hiệu, các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận. Nếu không thể hoàn trả bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền tương ứng với giá trị của tài sản đó.

Ví dụ: Nếu A bán cho B chiếc xe máy trị giá 50 triệu đồng nhưng giao dịch bị tuyên vô hiệu, B phải trả lại xe cho A; nếu xe đã bị hư hỏng hoặc bán cho người khác thì phải hoàn trả giá trị tương đương 50 triệu đồng.

Thứ ba, bảo vệ quyền lợi của bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức

Khoản 3 Điều 131 BLDS quy định: “Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.”Điều này thể hiện nguyên tắc bảo vệ người ngay tình, tức là người không biết và không thể biết giao dịch mình tham gia là vô hiệu.

Ví dụ: Ông B mua căn nhà từ ông A và cho thuê lại trong 6 tháng, thu được 120 triệu đồng. Sau đó, hợp đồng bị tuyên vô hiệu do ông A không có quyền bán. Tuy nhiên, ông B được xem là bên ngay tình nên không phải hoàn trả số tiền 120 triệu đồng này.

Thứ tư, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của bên có lỗi

Khoản 4 Điều 131 BLDS quy định: “Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.” Nghĩa là, nếu giao dịch bị vô hiệu do lỗi của một bên, thì bên đó phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại phát sinh cho bên còn lại.

Ví dụ: Ông C bán cho bà D một thửa đất nhưng thửa đất này đang bị kê biên để thi hành án. Ông C biết rõ điều này nhưng vẫn bán, khiến bà D bị thiệt hại về tiền đặt cọc, chi phí công chứng. Khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu, ông C phải hoàn trả toàn bộ số tiền và bồi thường thiệt hại phát sinh.

Thứ năm, giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân

Khoản 5 Điều 131 BLDS 2015 quy định: “Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”

Quyền nhân thân là những quyền gắn liền với cá nhân, không thể chuyển giao (ví dụ: danh dự, nhân phẩm, uy tín, họ tên…). Trong các trường hợp này, hậu quả của giao dịch vô hiệu sẽ được xử lý theo quy định riêng của từng lĩnh vực pháp luật liên quan, chẳng hạn như Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Sở hữu trí tuệ…

Cơ sở pháp lý

 

[1] Điều 16 BLDS 2015;

[2] Điều 19 BLDS 2015;

[3] Điều 20 BLDS 2015;

[4] Khoản 2 Điều 21 BLDS 2015;

[5] Khoản 3 Điều 21 BLDS 2015;

[6] Khoản 4 Điều 21 BLDS 2015;

[7] Điều 86 BLDS 2015;

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

 

Tin tức liên quan