NHỮNG VỤ ÁN CHỈ KHỞI TỐ THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI
Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là một thủ tục pháp lý trong hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam, khi mà việc khởi tố (bắt đầu điều tra và truy tố) một vụ án hình sự chỉ được tiến hành khi có yêu cầu từ phía người bị hại. Điều này có nghĩa là, dù hành vi phạm tội đã xảy ra và có thể được chứng minh, nhưng cơ quan chức năng chỉ tiến hành điều tra và truy tố khi người bị hại chính thức yêu cầu. Bài viết dưới đây xin trình bày các nội dung quy định liên quan đến những trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, mời các bạn cùng theo dõi.
I. CÁC GIAI ĐOẠN GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ
Quy trình giải quyết vụ án hình sự tại Việt Nam thường trải qua nhiều giai đoạn từ khởi tố đến xét xử và thi hành án. Dưới đây là các giai đoạn cơ bản:
(1) Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự:
Tại giai đoạn này, cơ quan chức năng có thẩm quyền theo quy định sẽ tiếp nhận tin báo, tố giác từ người dân, cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội. Dựa trên các căn cứ khởi tố vụ án hình sự theo quy định, cơ quan điều tra hoặc viện kiểm sát quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án theo quy định Bộ luật Tố tụng hình sự.
(2) Giai đoạn điều tra:
Tại giai đoạn điều tra, cơ quan chức năng có thẩm quyền sẽ tiến hành các hoạt động điều tra như: Thu thập chứng cứ, lấy lời khai của người bị hại, người làm chứng, người bị tình nghi. Sau đó xem xét ra quyết định khởi tố bị can khi có đủ căn cứ xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội, đồng thời cũng có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn nhưhư bắt tạm giam, tạm giữ, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh…Kết thúc điều tra: Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra, đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra nếu không đủ căn cứ.
(3) Giai đoạn truy tố:
Tại giai đoạn này, Viện kiểm sát xem xét hồ sơ vụ án do cơ quan điều tra chuyển đến và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát phải ra một trong các quyết định:
b) Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung;
c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can.
(4) Giai đoạn xét xử:
a) Chuẩn bị xét xử: Tòa án nhận cáo trạng và lên kế hoạch xét xử, triệu tập các bên liên quan.
b) Xét xử sơ thẩm: Tòa án tiến hành phiên tòa sơ thẩm để xem xét, đánh giá chứng cứ, lập luận của bên công tố và bên bào chữa, đưa ra phán quyết sơ thẩm.
c) Kháng cáo, kháng nghị: Các bên có quyền kháng cáo (bị cáo, bị hại) và Viện kiểm sát có quyền kháng nghị bản án sơ thẩm nếu không đồng ý với phán quyết.
(5) Giai đoạn xét xử phúc thẩm (nếu có)
Khi có kháng cáo, kháng nghị theo quy định, Tòa án cấp phúc thẩm nhận hồ sơ và lên kế hoạch xét xử. Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành phiên tòa để xem xét lại vụ án theo yêu cầu kháng cáo, kháng nghị và đưa ra phán quyết phúc thẩm.
(6) Giai đoạn thi hành án:
Cơ quan thi hành án hình sự hoặc dân sự thực hiện việc thi hành các quyết định của tòa án (ví dụ: giam giữ, cải tạo, bồi thường thiệt hại).
(7) Giai đoạn giám đốc thẩm hoặc tái thẩm (nếu có):
Giám đốc thẩm: Xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng có vi phạm nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án.
Tái thẩm: Xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng xuất hiện tình tiết mới quan trọng mà tòa án chưa biết khi ra bản án, quyết định.
Các giai đoạn trên đảm bảo rằng vụ án hình sự được giải quyết một cách toàn diện và công bằng, từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án.
II. CHỦ THỂ CÓ QUYỀN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
Theo Điều 153 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự cụ thể như sau:
(1) Cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tất cả vụ việc có dấu hiệu tội phạm, trừ những vụ việc do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đang thụ lý, giải quyết.
(2) Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp quy định tại Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
(3) Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp:
– Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
– Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
– Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử.
(4) Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm.
Như vậy, chỉ những chủ thể nêu trên và trong phạm vi quyền hạn của mình mới có quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
III. TRƯỜNG HỢP CHỈ KHỞI TỐ VỤ ÁN THEO YÊU CẦU CỦA BỊ HẠI
Như đã đề cập, chỉ những chủ thể như: Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình thì được ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, việc khởi tố vụ án hình sự này loại trừ những trường hợp mà pháp luật quy định chỉ khởi tố khi có yêu cầu từ phía người bị hại. Việc này nhằm đảm bảo cho người bị hại không phải chịu thêm những tổn thất khác từ việc truy cứu trách nhiệm hình sự của người phạm tội như: Gây thêm những tổn thất về tinh thần, làm lộ bí mật đời tư của bị hại, hoặc phá vỡ sự tha thứ, hòa giải và thỏa thuận bồi thường giữa các bên…
Việc khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại thường đặt ra đối với tội phạm xâm phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người hoặc xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, không phải là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không phải là rất lớn hoặc đặc biệt lớn, không có tình tiết định khung tăng nặng. Cụ thể, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định có 09 tội phạm thuộc trường hợp chỉ được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại gồm:
(1) Tội phạm tại khoản 1 các điều 134 BLHS 2015
“Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;
đ) Có tổ chức;
e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;
i) Có tính chất côn đồ;
k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.”
(2) Tội phạm tại khoản 1 các điều 135 BLHS 2015
“Điều 135. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.”
(3) Tội phạm tại khoản 1 các điều 136 BLHS 2015
“Điều 136. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.”
(4) Tội phạm tại khoản 1 các điều 138 BLHS 2015
“Điều 138. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1. Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm.”
(5) Tội phạm tại khoản 1 các điều 139 BLHS 2015
“Điều 139. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
1. Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.”
(6) Tội phạm tại khoản 1 các điều 141 BLHS 2015
“Điều 141. Tội hiếp dâm
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.”
(7) Tội phạm tại khoản 1 các điều 143 BLHS 2015
“Điều 143. Tội cưỡng dâm
1. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
(8) Tội phạm tại khoản 1 các điều 155 BLHS 2015
“Điều 155. Tội làm nhục người khác
1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.”
(9) Tội phạm tại khoản 1 các điều 156 BLHS 2015
“Điều 156. Tội vu khống
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.”
Chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố trong trường hợp nêu trên bao gồm: bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
IV. QUYỀN RÚT YÊU CẦU KHỞI TỐ CỦA BỊ HẠI
Pháp luật về Tố tụng hình sự Việt Nam cho phép bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết rút lại yêu cầu khởi tố sau khi đã đề nghị cơ quan chức năng khởi tố vụ án. Quyền này nhằm bảo vệ lợi ích của người bị hại và giúp giải quyết các tranh chấp một cách linh hoạt hơn. Cụ thể, khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: “Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.”
Như vậy, về hệ quả pháp lý, khi bị hại hoặc người đại diện của bị hại gửi đề nghị rút yêu cầu khởi tố vụ án đến cơ quan chức năng thì vụ án sẽ bị định chỉ. Tức vụ án sẽ được chấm dứt mà không giải quyết nữa, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Về thời điểm cho phép người đã yêu cầu khởi tố điểm rút lại yêu cầu thì pháp luật về Tố tụng hình sự không quy định. Do đó, theo Công văn 254/TANDTC-PC 2018 ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao đã hướng dẫn, tùy từng trường hợp cụ thể mà các Tòa án giải quyết như sau:
(1) Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm:
– Người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa căn cứ vào Điều 45, điểm a khoản 1 Điều 282 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án;
– Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155, Điều 299 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án;
– Trường hợp sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm vẫn còn thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Tòa án phải hướng dẫn họ làm đơn kháng cáo để Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết việc rút yêu cầu theo thủ tục phúc thẩm.
(2) Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm:
Trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155 và Điều 359 của Bộ luật Tố tụng hình sự hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Trong bản án phúc thẩm, Tòa án phải nhận định rõ lý do hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án là do người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu, không phải do lỗi của Tòa án cấp sơ thẩm.
(3) Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:
[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng – Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.
[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.
[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com
[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:
Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …