12

Th11

 NỢ DO NGƯỜI CHẾT ĐỂ LẠI ĐƯỢC XỬ LÝ NHƯ THẾ NÀO?

Trong quan hệ dân sự, việc một người chết đi không làm chấm dứt hoàn toàn các quyền và nghĩa vụ tài sản của họ. Thực tế, nhiều trường hợp người chết vẫn còn để lại nợ vay dang dở, khiến người thân lúng túng: “Ai phải trả nợ? Trả trong phạm vi nào? Dùng tài sản gì để thanh toán?”

1. Trường hợp chấm dứt nghĩa vụ khi một người chết đi

Căn cứ theo quy định tại khoản 8 Điều 372 BLDS năm 2015 thì nghĩa vụ dân sự chấm dứt trong trường hợp: “Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà nghĩa vụ phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện;”

Theo khoản 3 Điều 422 Bộ luật dân sự 2015, Hợp đồng chấm dứt trong trường hợp: “Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện;”

Điều này có nghĩa là chỉ những nghĩa vụ gắn liền với nhân thân người chết mới chấm dứt, ví dụ như nghĩa vụ biểu diễn nghệ thuật, viết sách, thực hiện hợp đồng lao động cá nhân, vì không ai có thể thay thế được người đó. Ngược lại, nếu nghĩa vụ không gắn với nhân thân mà mang tính tài sản (như vay tiền, trả nợ, bồi thường, nộp thuế), thì nghĩa vụ không chấm dứt khi người có nghĩa vụ qua đời.

2. Trường hợp nghĩa vụ vẫn phải thực hiện khi một người chết đi

Đối với các nghĩa vụ về tài sản, như vay tiền, nộp thuế, bồi thường thiệt hại, trả lương, cấp dưỡng… thì nghĩa vụ đó không mất đi mà sẽ được thanh toán bằng chính di sản của người chết để lại, cụ thể:

Theo Điều 614 BLDS năm 2015 quy định về thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế như sau: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”. 

Như vậy, quyền được hưởng di sản luôn song hành với trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết trong phạm vi di sản đó. Người thừa kế không chỉ tiếp nhận tài sản mà còn kế thừa cả trách nhiệm trả nợ, trừ trường hợp pháp luật quy định khác.

Đồng thời, Điều 620 BLDS 2015 quy định: “Người thừa kế không được quyền từ chối nhận di sản trong trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.”

Ngoài ra, tại Điều 615 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như sau:

Điều 615. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại

1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.

3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.”

Quy định này được hiểu là người thừa kế nhận được phần di sản trị giá bao nhiêu, thì chỉ có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi phần di sản mà người thừa kế đã nhận, người thừa kế không có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại đối với phần nghĩa vụ vượt quá phạm vi di sản được nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác ví dụ người thừa kế chấp nhận thực hiện nghĩa vụ vượt quá phần di sản được nhận…

Đối với trường hợp di sản thừa kế chưa được chia, thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại. Như vậy, nếu di sản chưa được chia và những người thừa kế không thoả thuận được về việc phân chia nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, thì lúc này người có quyền có được quyền yêu cầu các đồng thừa kế tiến hành chia tài sản và thực hiện nghĩa vụ đối với mình hay không?. Thực tiễn nhiều trường hợp những người thừa kế cố tình thoả thuận không phân chia di sản thừa kế để trốn tránh nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

Mặc dù người có quyền được quyền yêu cầu những người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, nhưng việc thanh toán nghĩa vụ tài sản này phải theo thứ tự ưu tiên thanh toán của luật. Cụ thể Điều 658 BLDS 2015 quy định chi tiết thứ tự ưu tiên thanh toán nghĩa vụ tài sản của người chết như sau:

“1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.

2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu.

3. Chi phí cho việc bảo quản di sản.

4. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ.

5. Tiền công lao động.

6. Tiền bồi thường thiệt hại.

7. Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.

8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.

9. Tiền phạt.

10. Các chi phí khác.”

Kinh nghiệm lưu ý trong trường hợp này, người có quyền cần phải khởi kiện càng sớm càng tốt để tránh trường hợp di sản do người chết để lại đã bị các bên khác có thứ tự trước mình khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ trước, thì tới lúc mình muốn khởi kiện để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thì lúc đó di sản đã không còn.

Như vậy, những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại. Thứ tự ưu tiên thanh toán được thực hiện theo quy định đã trích dẫn ở trên. Trong trường hợp người thừa kế nhận di sản nhưng không thực hiện nghĩa vụ tài sản, chủ nợ có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu người nhận di sản thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong phạm vi giá trị di sản mà họ đã nhận.

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

Tin tức liên quan