QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Theo quy định tố tố tụng hình sự Việt Nam người làm chứng được pháp luật quy định bằng những quy định rất rõ ràng nhằm bảo đảm tính công bằng và an toàn cho họ trong quá trình cung cấp thông tin và làm chứng trong vụ án hình sự. Mời các bạn theo dõi bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn quyền được bảo vệ của người làm chứng trong tố tụng hình sự.
1. Người làm chứng trong tố tụng hình sự là ai?
Người làm chứng trong tố tụng hình sự được hiểu là những người có thông tin hoặc chứng cứ liên quan đến vụ án được đưa ra xét xử. Họ có thể là nhân chứng trực tiếp chứng kiến sự kiện, những người có thông tin liên quan đến vụ án.
Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định rõ [1]: “Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.”
Như vậy, người làm chứng theo quy định của pháp luật về Tố tụng hình sự phải đảm bảo đủ hai yếu tố: Một là, phải biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và hai là, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.
2. Những người không được làm người làm chứng
Vai trò của người làm chứng trong vụ án hình sư là cung cấp thông tin, chứng cứ để hỗ trợ quá trình tố tụng và việc đưa ra quyết định của tòa án. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể trở thành người làm chứng. Theo đó, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 loại trừ hai đối tượng không được trở thành người làm chứng gồm [2]: (a) Người bào chữa của người bị buộc tội; và (b)Người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn.
Ngoài ra, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 cũng có quy định về nhóm chủ thể đã tham gia với tư cách ngời làm chứng thì bị hạn chế quyền tham gia tố tụng với tư cách tố tụng khác như:
– Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu họ đã tham gia với tư cách người làm chứng trong vụ án đó [3].
– Người giám định: Người giám định là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực cần giám định, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu, người tham gia tố tụng yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật. Người giám định phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi khi đã tham gia với tư cách là người làm chứng trong vụ án đó [4].
– Người phiên dịch, người dịch thuật: Người phiên dịch, người dịch thuật là người có khả năng phiên dịch, dịch thuật và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt hoặc có tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt. Người phiên dịch, người dịch thuật phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi khi đã tham gia với tư cách là người làm chứng trong vụ án đó [5].
3. Nghĩa vụ của người làm chứng
Người làm chứng trong vụ án hình sự có một số nghĩa vụ quan trọng để đảm bảo quá trình tố tụng diễn ra một cách công bằng và chính xác. Cụ thể, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định, người làm chứng phải có các nghĩa vụ sau [6]:
a) Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp cố ý vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải;
b) Trình bày trung thực những tình tiết mà mình biết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và lý do biết được những tình tiết đó.
Trong phạm vi nghĩa vụ của mình, nếu người làm chứng khai báo gian dối hoặc từ chối khai báo, trốn tránh việc khai báo mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.
Ngoài ra, để đảm bảo thực hiện tốt nghĩa vụ của người làm chứng, các cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc hoặc học tập có trách nhiệm tạo điều kiện để họ tham gia tố tụng.
4. Quyền được pháp luật bảo vệ của người làm chứng
Để bảo vệ người làm chứng tham gia hoạt động tố tụng hình sự, pháp luật đã có các quy định bảo vệ người làm chứng, cụ thể:
Thứ nhất, việc bảo vệ người làm chứng được thể hiện tại các quy định biện pháp ngăn chặn trong hoạt động tố tụng hình sự như:
– Tạm giam:
Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó có hành vi đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng và người thân thích của những người này [7].
– Bảo lĩnh:
Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.
Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ: không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng và người thân thích của những người này. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật [8].
– Đặt tiền để đảm bảo:
Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm.
Bị can, bị cáo được đặt tiền phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ: không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng và người thân thích của những người này. Người thân thích của bị can, bị cáo được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chấp nhận cho đặt tiền để bảo đảm phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ theo quy, nếu vi phạm thì số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước [9].
– Cấm đi khỏi nơi cư trú:
Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
Bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ: không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng và người thân thích của những người này. Nếu bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú biết để xử lý theo thẩm quyền [10].
Như vậy, trong các biện pháp ngăn chặn trong hoạt động tố tụng hình sự, người làm chứng đã được đảm bảo bản thân và người thân không bị đe dọa, khống chế, trả thù từ phía bị can, bị cáo.
Thứ hai, việc bảo vệ người làm chứng được thể hiện rõ tại quy định về các quyền của người làm chứng và các biện pháp bảo vệ người làm chứng
Theo điểm b khoản 3 Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, quy định về quyền của người làm chứng, trong đó đã đề cập rõ: Người làm chứng có quyền yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa;
Theo đó, tại Điều 484 Bộ luật hình sự 2015 cũng đã có các quy định quyền của người làm chứng khi được bảo vệ như:
a) Đề nghị được bảo vệ;
b) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ;
c) Được biết về việc áp dụng biện pháp bảo vệ; đề nghị thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp bảo vệ;
d) Được bồi thường thiệt hại, khôi phục danh dự, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp trong thời gian bảo vệ.
Về các biện pháp bảo vệ, Điều 486 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Khi có căn cứ xác định tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại do việc cung cấp chứng cứ, tài liệu, thông tin liên quan đến tội phạm thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định áp dụng những biện pháp sau đây để bảo vệ họ:
a) Bố trí lực lượng, tiến hành các biện pháp nghiệp vụ, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và các phương tiện khác để canh gác, bảo vệ;
b) Hạn chế việc đi lại, tiếp xúc của người được bảo vệ để bảo đảm an toàn cho họ;
c) Giữ bí mật và yêu cầu người khác giữ bí mật các thông tin liên quan đến người được bảo vệ;
d) Di chuyển, giữ bí mật chỗ ở, nơi làm việc, học tập; thay đổi tung tích, lý lịch, đặc điểm nhân dạng của người được bảo vệ, nếu được họ đồng ý;
đ) Răn đe, cảnh cáo, vô hiệu hóa các hành vi xâm hại người được bảo vệ; ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi xâm hại theo quy định của pháp luật;
e) Các biện pháp bảo vệ khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, đối với người làm chứng nếu xét thấy việc làm chứng của mình trong vụ án hình sự gây ra nguy hiểm và thiệt hại cho bản thân người làm chứng hoặc gia đình, người thân của họ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm thì Người làm chứng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ phù hợp. Đồng thời họ cũng có thể được bồi thường thiệt hại, khôi phục danh dự, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp trong thời gian bảo vệ.
5. Thủ tục yêu cầu và trình tự áp dụng biện pháp bảo vệ người làm chứng
Theo quy định tại các Điều 487, Điều 488, Điều 489 Bộ luật hình sự 2015, nếu muốn được bảo vệ, người làm chứng phải có văn bản đề nghị, yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ.
(1) Văn bản đề nghị, yêu cầu có các nội dung chính:
a) Ngày, tháng, năm;
b) Tên, địa chỉ của người đề nghị;
c) Lý do và nội dung đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ;
d) Chữ ký hoặc điểm chỉ của người đề nghị. Trường hợp đề nghị của cơ quan, tổ chức thì người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó ký tên và đóng dấu.
(2) Trường hợp khẩn cấp, người được bảo vệ trực tiếp đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ hoặc thông qua phương tiện thông tin liên lạc nhưng sau đó phải thể hiện bằng văn bản đề nghị. Cơ quan, người có thẩm quyền nhận được đề nghị, yêu cầu phải lập biên bản và đưa vào hồ sơ bảo vệ.
(3). Khi tiến hành tố tụng đối với vụ án, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nhận được đề nghị, yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ có trách nhiệm xem xét, đề nghị Cơ quan điều tra cùng cấp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ. Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp cao nhận được đề nghị, yêu cầu bảo vệ thì đề nghị Cơ quan điều tra Bộ Công an xem xét, quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ.
(4) Cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cứ, tính xác thực của đề nghị, yêu cầu bảo vệ. Trường hợp xét thấy không cần thiết áp dụng biện pháp bảo vệ thì phải giải thích rõ lý do cho người đã yêu cầu, đề nghị biết.
(5) Quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ được gửi cho người yêu cầu bảo vệ, người được bảo vệ, Viện kiểm sát, Tòa án đã đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ và cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan đến việc bảo vệ.
(6) Sau khi ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ, Cơ quan điều tra có thẩm quyền áp dụng phải tổ chức thực hiện ngay biện pháp bảo vệ. Trường hợp cần thiết có thể phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân để thực hiện việc bảo vệ.
Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng có thể thay đổi, bổ sung biện pháp bảo vệ trong quá trình bảo vệ nếu xét thấy cần thiết.
Thời gian bảo vệ được tính từ khi áp dụng biện pháp bảo vệ cho đến khi có quyết định chấm dứt áp dụng biện pháp bảo vệ.
(7) Chấm dứt việc bảo vệ
– Khi xét thấy căn cứ xâm hại hoặc đe dọa xâm hại tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ không còn, Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ phải ra quyết định chấm dứt áp dụng biện pháp bảo vệ.
– Quyết định chấm dứt áp dụng các biện pháp bảo vệ phải được gửi cho người được bảo vệ, cơ quan đã đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ và cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan đến việc bảo vệ.
Cơ sở pháp lý
[1] Khoản 1 Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
[2] Khoản 2 Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
[3] Điều 49 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
[4] Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
[5] Điều 70 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
[6] Khoản 4 Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
[7] Điểm d khoản 2 Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
[8] điểm c khoản 3, khoản 6 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
[9] Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
[10] Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:
[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng – Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.
[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.
[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com
[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:
Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …