13

Th10

QUY ĐỊNH VỀ YÊU CẦU PHẢN TỐ CỦA BỊ ĐƠN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Trong tố tụng dân sự, khi Tòa án thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn không chỉ có quyền đưa ra ý kiến phản bác lại yêu cầu khởi kiện mà còn có thể đưa ra yêu cầu phản tố nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Việc hiểu rõ quy định về yêu cầu phản tố giúp các bên trong vụ án chủ động hơn trong chiến lược tố tụng, tránh việc bị động hoặc mất quyền yêu cầu

1. Phản tố là gì?

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015) không đưa ra định nghĩa cụ thể về “phản tố”, nhưng qua thực tiễn áp dụng và đối chiếu các quy định, có thể hiểu: Yêu cầu phản tố là quyền của bị đơn “khởi kiện ngược” đối với nguyên đơn và được Tòa án giải quyết trong cùng vụ án đã thụ lý, vì việc giải quyết yêu cầu của hai bên có yêu cầu chặt chẽ với nhau. Nếu yêu cầu của bị đơn là một việc hoàn toàn không liên quan đến đơn khởi kiện của nguyên đơn thì bị đơn phải khởi kiện thành một vụ án dân sự mới. Như vậy, yêu cầu phản tố của bị đơn chỉ phát sinh khi có việc nguyên đơn kiện bị đơn và Toà án có thẩm quyền thụ lý vụ việc đối với yêu cầu của nguyên đơn, sau đó bị đơn cũng cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm và có đơn yêu cầu toà án giải quyết những vấn đề có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn trong cùng một vụ án dân sự.

2. Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn

Quyền được đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn được quy định tại khoản 1 Điều 200 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015: “Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập”.

Như vậy có thể thấy, quyền yêu cầu phản tố là một trong những quyền tố tụng độc lập của bị đơn, cho phép họ chủ động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong cùng vụ án, thay vì phải khởi kiện một vụ án riêng biệt. Quyền này được thực hiện kể từ khi bị đơn nhận được thông báo thụ lý vụ án hoặc thông báo về việc thụ lý yêu cầu độc lập. Khi đó, bị đơn có thể phản tố đối với nguyên đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, nếu giữa các yêu cầu này có mối liên hệ pháp lý cần được giải quyết đồng thời.

3. Điều kiện thực hiện quyền phản tố

Căn cứ khoản 4 Điều 72 và khoản 1 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, nhưng chỉ khi yêu cầu phản tố thỏa mãn một trong ba điều kiện luật định thì Tòa án mới xem xét và chấp nhận, cụ thể:

Thứ nhất, yêu cầu phản tố được sử dụng để bù trừ nghĩa vụ với nguyên đơn.

Bù trừ nghĩa vụ là trường hợp giữa nguyên đơn và bị đơn cùng có nghĩa vụ tài sản đối với nhau, và bị đơn dùng quyền phản tố để yêu cầu Tòa án xác định phần nghĩa vụ tương ứng được bù trừ. Việc này không những bảo vệ quyền lợi của bị đơn mà còn giúp giải quyết triệt để quan hệ nghĩa vụ giữa hai bên.

Ví dụ: A khởi kiện B đòi 500 triệu đồng tiền hàng hóa. B chứng minh A cũng đang nợ B 200 triệu đồng tiền vận chuyển theo hợp đồng khác, và yêu cầu Tòa trừ số tiền này vào nghĩa vụ của mình. Đây là yêu cầu phản tố dùng để bù trừ nghĩa vụ, được Tòa án xem xét cùng vụ án.

Thứ hai, yêu cầu phản tố làm loại trừ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Trong trường hợp này, yêu cầu phản tố của bị đơn nếu được chấp nhận sẽ trực tiếp làm giảm hoặc triệt tiêu nghĩa vụ mà nguyên đơn đang yêu cầu.

Ví dụ: A khởi kiện yêu cầu B thanh toán 200 triệu đồng phí gia công. B không đồng ý, cho rằng sản phẩm mà A gia công bị lỗi, không đạt tiêu chuẩn kỹ thuật nên không thể tiêu thụ được, B đưa ra yêu cầu phản tố: “Đề nghị Tòa án buộc Công ty A bồi thường 300 triệu đồng do giao sản phẩm lỗi, gây thiệt hại nghiêm trọng đến hợp đồng của B với khách hàng”, thì đây là phản tố hợp lệ, bởi nếu phản tố này được chấp nhận thì không chỉ loại trừ nghĩa vụ trả tiền mà còn phát sinh nghĩa vụ ngược lại của A phải bồi thường.

Thứ ba, yêu cầu phản tố có liên quan chặt chẽ với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, và việc giải quyết cùng một vụ án sẽ giúp vụ án được giải quyết nhanh chóng, chính xác hơn.

Tính “liên quan chặt chẽ” được hiểu là hai yêu cầu phát sinh từ cùng một quan hệ pháp luật hoặc có cùng nguồn gốc chứng cứ, đối tượng tranh chấp. Nếu tách riêng, hai vụ án sẽ làm tăng thời gian, chi phí tố tụng và nguy cơ phán quyết mâu thuẫn.

Yêu cầu phản tố thuộc trường hợp này thường không nhằm bù trừ hay loại trừ nghĩa vụ trực tiếp, mà có mục đích làm rõ bản chất quan hệ pháp lý đang bị tranh chấp, giúp Tòa án có cái nhìn toàn diện khi ra phán quyết.

Ví dụ: Công ty A khởi kiện Công ty B yêu cầu thanh toán 400 triệu đồng tiền hàng theo hợp đồng mua bán. Trong quá trình giải quyết, B phản tố yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng mua bán giữa hai bên vô hiệu vì người ký hợp đồng phía A không có thẩm quyền đại diện theo pháp luật của công ty.

Hai yêu cầu này có mối liên hệ mật thiết, vì nếu hợp đồng bị tuyên vô hiệu thì nghĩa vụ thanh toán của B sẽ không còn căn cứ tồn tại; ngược lại, nếu hợp đồng hợp pháp thì phản tố của B sẽ bị bác. Việc Tòa án giải quyết đồng thời cả yêu cầu của A và phản tố của B trong cùng một vụ án giúp tránh được hai bản án trái ngược nhau (một bản tuyên hợp đồng có hiệu lực, bản khác tuyên vô hiệu).

4. Thời điểm, thời hạn đưa ra yêu cầu phản tố

Về thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 199 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, trong 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo thụ lý vụ án, bị đơn phải nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cùng với đó, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố nếu có.

Cũng theo quy định tại khoản 3 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 243 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, về thủ tục hỏi đương sự về việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu. Trong đó, tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, chủ tọa phiên tòa sẽ hỏi bị đơn về việc có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản tố của mình hay không. Do đó, tại thời điểm này, bị đơn có quyền thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản tố của mình đối với nguyên đơn. Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử sẽ xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của bị đơn theo Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự 2915, cụ thể:

“Điều 244. Xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu

1. Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.

2. Trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút.”

Như vậy, thời điểm bắt đầu thực hiện quyền phản tố của bị đơn chính là từ khi bị đơn nhận thông báo thụ lý vụ án đến trước phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tuy nhiên, pháp luật về tố tụng dân sự không quy định cụ thể số lần mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Nên trên thực tế, tùy thuộc vào các tình tiết khách quan của vụ án, việc giao nộp chứng cứ giữa các bên, mà Thẩm phán có thể mở phiên họp nhiều lần nhằm tạo điều kiện cho các bên trong việc hòa giải cũng như làm rõ các chứng cứ liên quan. Do đó, có thể hiểu, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố của mình trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần cuối cùng. Nếu bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố sau thời điểm này thì Tòa án phải trả lại đơn yêu cầu phản tố. Ngoài ra, tại thời điểm xét xử vụ án, bị đơn vẫn có thể thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố của mình, nhưng Hội đồng xét xử sẽ xem xét chấp thuận khi việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của bị đơn không vượt quá phạm vi yêu cầu phản tố ban đầu của họ.

5. Thủ tục giải quyết yêu cầu phản tố tại Tòa

Theo quy định tại Điều 202 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015), thủ tục giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn được thực hiện tương tự như thủ tục khởi kiện của nguyên đơn. Điều này có nghĩa là, ngay khi bị đơn nộp đơn phản tố, Tòa án sẽ tiếp nhận, xem xét, phân công Thẩm phán và ra quyết định xử lý theo quy trình chung được quy định tại Điều 191 BLTTDS 2015, cụ thể:

Bước 1: Tiếp nhận đơn phản tố

Bộ phận tiếp nhận đơn của Tòa án phải nhận đơn phản tố do bị đơn nộp trực tiếp, gửi qua bưu chính hoặc gửi trực tuyến (qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án).

– Nếu nộp trực tiếp, Tòa án phải cấp ngay Giấy xác nhận đã nhận đơn phản tố cho bị đơn.

– Nếu gửi qua bưu điện, trong vòng 02 ngày làm việc kể từ khi nhận đơn, Tòa án phải thông báo đã nhận đơn phản tố.

– Nếu gửi trực tuyến, Tòa án phải thông báo ngay qua hệ thống điện tử của mình.

Bước 2: Phân công Thẩm phán xem xét đơn.

Trong vòng 03 ngày làm việc kể từ khi nhận đơn phản tố, Chánh án Tòa án sẽ phân công một Thẩm phán xem xét đơn. Đây là bước bắt buộc để đảm bảo đơn được xử lý kịp thời, không bị chậm trễ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.

Bước 3: Xem xét và ra quyết định xử lý đơn phản tố.

Sau khi được phân công, trong vòng 05 ngày làm việc, Thẩm phán phải xem xét nội dung đơn phản tố và đưa ra một trong các quyết định sau:

– Yêu cầu bị đơn sửa đổi, bổ sung đơn phản tố nếu đơn chưa đủ nội dung hoặc chưa rõ căn cứ;

– Ra quyết định thụ lý phản tố nếu đủ điều kiện pháp luật;

– Chuyển đơn phản tố cho Tòa án có thẩm quyền khác nếu vụ việc thuộc thẩm quyền của nơi khác;

– Trả lại đơn phản tố nếu phản tố không thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc không đáp ứng điều kiện về nội dung, thời điểm, hình thức.

Kết quả xử lý đơn của Thẩm phán quy định tại khoản 3 Điều 191 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 phải được ghi chú vào sổ nhận đơn và thông báo cho người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).

Như vậy, thời hạn xử lý đơn yêu cầu phản tố tối đa là 8 ngày đối với trường hợp nộp đơn trực tiếp và tối đa là 10 ngày đối với trường hợp nộp đơn thông qua dịch vụ bưu chính.

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

 

Tin tức liên quan