26

Th7

THỜI HẠN TẠM GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn là rất cần thiết nhằm giúp cơ quan có thẩm quyền tố tụng  kịp thời ngăn chặn tội phạm, hạn chế người bị buộc tội gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, hoặc tiếp tục phạm tội hoặc để đảm bảo thi hành án. Trong đó, Giữ người trong trường hợp khẩn cấp được quy định tại Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Cùng theo dõi bài biết sau của Luật 3S để biết cụ thể quy định về tạm giữ người trong trường hợp khẩn cấp cũng như nắm rõ về thời hạn tạm giữ trong trường hợp này ra sao nhé!

 

I. CƠ SỞ PHÁP LÝ

– Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

– Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP về phối hợp giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát

 

II. TẠM GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP LÀ GÌ?

Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là bắt giữ người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc sau khi thực hiện tội phạm người đó bỏ trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ. Đây là biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều 110 BLTTHS 2015. Theo đó, có 3 trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Một là: có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

Cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định được các chứng cứ chứng tỏ người đó đang tìm kiếm, chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội; lên kế hoạch, lôi kéo, phân công người khác nhằm thực hiện tội phạm…Tội phạm mà họ chuẩn bị thực hiện phải là tội phạm rất nghiêm trọng, có mức cao nhất của khung hình phạt từ trên 07 năm đến 15 năm tù hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, có mức cao nhất của khung hình phạt từ trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

Hai là: Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.

“Người cùng thực hiện tội phạm” là một bổ sung mới, cần thiết của BLTTHS năm 2015 vì người này cũng hoàn toàn có khả năng “chính mắt nhìn thất và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm”. Đây là trường hợp tội phạm đã xảy ra nhưng người phạm tội không bị bắt ngay (không bị bắt quả tang). Để có căn cứ giữ người trong trường hợp này phải thõa mãn cả hai điều kiện sau:

Thứ nhất, người cùng thực hiện tội phạm, người bị hại, người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm khẳng định chính xác họ đã nhìn thấy trực tiếp người đó thực hiện tội phạm. Nếu đồng phạm trong vụ án mà không có mặt tại nơi tội phạm diễn ra hoặc không chính mắt nhìn thấy thì xác nhận của họ cũng không là căn cứ để giữ người.

Thứ hai, cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn (người đó đang có hành động bỏ trốn, đang chuẩn bị trốn hoặc có những dấu hiệu bỏ trốn). Để xác định cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn, cần đánh giá một cách toàn diện về các mặt như: về nhân thân, đối tượng (không có nơi cư trú rõ ràng, nhân thân xấu, có nhiều tiền án, tiền sự; là đối tượng chưa xác định được căn cước, lý lịch rõ ràng…); về tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội và loại phạm tội được thực hiện (thực tiễn cho thấy người phạm tội thường trốn như tội trộm cắp, lừa đảo, cướp, giết người, mua bán trái phép chất ma túy…); về hành vi thực tế: có căn cứ xác định người này đang chuẩn bị hành lý, liên hệ phương tiện đi lại, có mặt ở bến tàu, bến xe…

Ba là: Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

Có dấu vết của tội phạm được tìm thấy có thể là dấu vết để lại trên thân thể khi người đó thực hiện tội phạm như dấu vết máu của người bị hại, vết thương do người bị hại gây ra…cũng có thể là công cụ, phương tiện, đối tượng của tội phạm. Thu thập dấu vết của tội phạm phải được tiến hành thông qua các biện pháp tố tụng được quy định trong BLTTHS. Xét thấy cần ngăn chặn việc bỏ trốn, xóa dấu vết tội phạm, đang cất giấu hoặc phá hủy công cụ, phương tiện phạm tội, đang tẩu tán hoặc tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có…

Tóm lại, việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải có tài liệu, chứng cứ của các cơ quan có thẩm quyền khẳng định một người nào đó có các hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc bị nghi là thực hiện tội phạm và họ có biểu hiện trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ, làm giải chứng cứ.

 

III. THẨM QUYỀN RA LỆNH GIỮ NGƯỜI

Thẩm quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp được quy định tại khoản 2 Điều 110 BLTTHS, bao gồm:

a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;

b) Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;

c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.

 

IV. THỜI HẠN GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP

Khoản 4 Điều 110 BLTTHS năm 2015 quy định: Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn…”.

Có thể thấy, khi có các căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp, cơ quan điều tra có quyền giữ người khi chưa có quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của Viện kiểm sát. Theo đó, trong thời hạn 12 giờ kể từ khi Cơ quan điều tra giữ người hoặc nhận người bị giữ, cơ quan điều tra phải tiến hành các công việc: Lấy lời khai ngay người bị giữ; ra quyết định tạm giữ; ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay cho người đó; Quyết định tạm giữ người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp có thể được ra trước hoặc cùng với lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Bên cạnh đó, Điều 118 BLTTHS năm 2015 quy định: “1. Thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú; 2. Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 03 ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày…”

Như vậy, theo quy định này thì thời điểm bắt đầu tính thời hạn tạm giữ trong 03 trường hợp: (1) Kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt; (2) hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình; (3) hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.

Lưu ý: Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ; Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.

 

V. THỦ TỤC GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP

BLTTHS năm 2015 quy định rất chặt chẽ về trình tự, thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Có thể tóm tắt quy trình tạm giữ người trong trường hợp khẩn cấp qua các giai đoạn như sau:

Giai đoạn 1: Tiến hành bắt giữ người.

Việc bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp được áp dụng khi thuộc một trong các trường hợp  theo quy định tại khoản 1 Điều 110 BLTTHS 2015. Theo đó, để giữ người trong trường hợp khẩn cấp cần có Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Lệnh giữ người này không cần có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp.

Khoản 3 Điều 110 BLTTHS năm 2015 quy định “Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều này và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này” và “Việc thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 113 của Bộ luật này”.

Người thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản. Thủ tục lập biên bản theo quy định tại Điều 115 BLTTHS 2015.

Giai đoạn 2: Điều tra, xem xét.

Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Nếu xét thấy có căn cứ thì phải ra quyết định tạm giữ, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và chuyển hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát có thẩm quyền xét phê chuẩn. Hồ sơ gửi VKS bao gồm: Văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định tạm giữ; Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; Biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Nếu xét thấy không có đủ căn cứ thì phải trả tự do ngay cho người bị giữ. Có thể thấy, tại giai đoạn này, Cơ quan điều tra có thể trả tự do ngay cho người bị giữ mà không cần phải có sự đồng ý của Viện kiểm sát khi xét thấy không có căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Ngoài ra, Việc ra quyết định tạm giữ người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được thực hiện trong thời hạn 12 giờ kể từ khi Cơ quan điều tra giữ người hoặc nhận người bị giữ (chưa cần có quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của Viện kiểm sát). Quyết định tạm giữ người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được ra trước hoặc cùng với lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Giai đoạn 3: Viện kiểm sát quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Để đảm bảo việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp có căn cứ và đúng quy định, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, Khoản 6, Điều 110 BLTTHS năm 2015 đã quy định Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.

Trường hợp Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì người đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ.

Như vậy, với quy định này thì Viện kiểm sát chỉ xem xét phê chuẩn hoặc không phê chuẩn Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp chứ không phải xem xét phê chuẩn hoặc không phê chuẩn Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Điều tra viên phải lập biên bản bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp tại cơ sở giam giữ. Người chứng kiến việc lập biên bản là cán bộ của cơ sở giam giữ.

Giai đoạn 4: Thông báo về việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người

Sau khi giữ người, bắt người, người ra lệnh giữ người, lệnh hoặc quyết định bắt người phải thông báo ngay cho gia đình người bị giữ, bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập biết.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận người bị giữ, bị bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị giữ, bị bắt phải thông báo cho gia đình người bị giữ, bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập biết; trường hợp người bị giữ, người bị bắt là công dân nước ngoài thì phải thông báo cho cơ quan ngoại giao của Việt Nam để thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao của nước có công dân bị giữ, bị bắt.

Nếu việc thông báo cản trở truy bắt đối tượng khác hoặc cản trở điều tra thì sau khi cản trở đó không còn, người ra lệnh giữ người, lệnh hoặc quyết định bắt người, Cơ quan điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt phải thông báo ngay.

 

VI. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ

Theo Điều 59, 117, 118 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, thì:

* Người bị tạm giữ có quyền:

– Được biết lý do mình bị tạm giữ; nhận quyết định tạm giữ, quyết định gia hạn tạm giữ, quyết định phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;

– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;

– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

– Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;

– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng về việc tạm giữ.

* Người bị tạm giữ có nghĩa vụ chấp hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.

 

Tham khảo:

– vienkiemsattinhphutho.gov.vn;

– kiemsat.vn;

– vksndtc.gov.vn

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

 

Tin tức liên quan