08

Th9

XÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ DI SẢN THỜ CÚNG

Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng là một trong những quyền cơ bản của người để lại di sản. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp, người để lại di sản đều được quyền để lại di sản thờ cúng. Vậy việc để lại di sản thời cúng phải đáp ứng điều kiện gì và việc quản lý di sản thờ cúng được pháp luật quy định như thế nào?

1. Xác lập di sản thờ cúng

Theo Điều 645 BLDS năm 2015, căn cứ xác lập di sản thờ cúng được ghi nhận trong trường hợp “người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng”, tức là di sản thờ cúng chỉ được xác lập khi “người lập di chúc định đoạt phần di sản dùng vào việc thờ cúng và chỉ rõ phần tài sản nào được dùng vào việc thờ cúng”. Tuy nhiên cần lưu ý, chỉ được xác lập di sản thờ cúng nếu tài sản của người để lại di sản đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó. Nếu trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.

2. Việc quản lý di sản thờ cúng

Khoản 1 Điều 645 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người quản lý tài sản thờ cúng như sau:

Một là, trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng;

Nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

Hai là, trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.

Ba là, trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

3. Quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản thờ cúng

Về quyền của người quản lý di sản thờ cúng, căn cứ theo quy định tại Điều 618 BLDS 2015, người quản lý di sản thờ cúng sẽ có các quyền sau đây:

Một là quyền đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;

Hai là được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế;

Ba là được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Đối với Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì có quyền sau:

a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thoả thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;

b) Được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế;

c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.

Về nghĩa vụ, căn cứ theo quy định tại Điều 617 BLDS 2015, người quản lý di sản thờ cúng sẽ có các nghĩa vụ sau đây:

Một là, Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

Hai là, Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;

Ba là, Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;

Bốn là, Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

Năm là, Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

Đối với Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì có các nghĩa vụ sau:

a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác;

b) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;

c) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

d) Giao lại di sản theo thoả thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu cầu của người thừa kế.

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

 

Tin tức liên quan