24

Th11

CON RIÊNG CÓ ĐƯỢC HƯỞNG THỪA KẾ NHƯ CON RUỘT?

Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế, câu hỏi “con riêng có được hưởng thừa kế như con ruột hay không?” là vấn đề thường xuyên phát sinh, đặc biệt ở các gia đình có hôn nhân lần hai hoặc gia đình có con riêng sống chung nhiều năm.

1. Con riêng là gì?

Pháp luật hiện hành không đưa ra định nghĩa cụ thể về “con riêng”, nhưng có thể hiểu một cách đơn giản: con riêng là người con của một bên vợ hoặc chồng với người khác, không phải là con chung của cả hai vợ chồng trong cuộc hôn nhân hợp pháp. Con riêng có thể là con riêng của người vợ do người vợ sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nhưng Tòa án xác định người chồng không phải là cha của đứa trẻ hoặc là con riêng của người chồng do người phụ nữ khác sinh ra nhưng Tòa án xác định người chồng trong cuộc hôn nhân hiện tại là cha của đứa trẻ. Như vậy, con riêng có thể là con sinh trong thời kỳ hôn nhân hoặc con sinh ngoài hôn nhân, miễn là đứa trẻ đó không phải là con chung của cả hai vợ chồng.

2. Con riêng thuộc hàng thừa kế thứ mấy?

Căn cứ theo Điểm 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hàng thừa kế theo pháp luật thì thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

– Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

– Hàng kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh cọ, chị cọ, em lòng của người chết; cháu nhung của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

– Hàng kế thừa thứ ba bao gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác vỗ, chú vỗ, cậu long, cô cọ, dì vỗ của người chết; cháu của người chết mà người chết là bác bạch, chú bạch, cậu bé, cô cọ, dì cọ; run của người chết mà người chết là cụ nội, ngoại.

Như vậy, con riêng không thuộc bất kỳ hàng thừa kế nào của cha dượng hoặc mẹ kế, vì không tồn tại quan hệ huyết thống và pháp luật không mặc nhiên thừa nhận họ là người thừa kế. Tuy nhiên, con riêng vẫn là con đẻ của người để lại di sản, nên đối với cha ruột hoặc mẹ ruột, con riêng thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng thừa kế như con chung, nếu chứng minh được quan hệ huyết thống.

3. Quyền thừa kế của con riêng đối với cha hoặc mẹ ruột

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 68 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “2. Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ của mình được quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.”

Như vậy, theo quy định trên thì con riêng vẫn là con ruột của cha hoặc mẹ ruột, và quyền thừa kế của người con riêng này đối với di sản của cha, mẹ ruột để lại không bị ảnh hưởng bởi việc cha mẹ đã ly hôn hay tái hôn với người khác.

Quyền thừa kế được xác định theo hai hình thức: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.

(i) Thừa kế theo di chúc:

Theo quy định tại Điều 626 Bộ Luật dân sự 2015, quy định:

“Người lập di chúc có quyền sau đây:

1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;

2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;

3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;

4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;

5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.”

Do đó, nếu di chúc hợp pháp chỉ định con riêng được hưởng di sản, thì con riêng được hưởng theo đúng ý chí của người lập di chúc.

Ngoài ra, con riêng còn có thể được hưởng thừa kế ngay cả khi không có tên trong di chúc, theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015:

“Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.

2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”

Theo đó, con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất khả năng lao động vẫn được hưởng một phần di sản dù người để lại di sản mặc dù không chỉ định trong di chúc hoặc chỉ định một phần ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. Nếu người con riêng này từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 BLDS hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của BLDS thì không được hưởng di sản theo Điều 644 nêu trên.

Cụ thể, khoản 1 Điều 621 của BLDS quy định như sau:

“Điều 621. Người không được quyền hưởng di sản

1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.”

(ii) Thừa kế theo pháp luật:

Thừa kế theo pháp luật đặt ra nếu thuộc một trong các trường hợp tại Điều 650 BLDS 2015:

“Điều 650. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:

a) Không có di chúc;

b) Di chúc không hợp pháp;

c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;

d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

2.Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:

a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;

b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;

c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”

Trường hợp thừa kế theo pháp luật thì con riêng với tư cách là con ruột của người chết sẽ đương nhiên thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng phần di sản ngang bằng với các đồng thừa kế khác trong cùng hàng, không phân biệt nào giữa con riêng và con chung.

Cần lưu ý rằng, dù là thừa kế theo di chúc hay thừa kế theo pháp luật thì con riêng chỉ được hưởng phần di sản thuộc về cha hoặc mẹ ruột, chứ không mặc nhiên được hưởng toàn bộ tài sản chung của cha mẹ ruột với người vợ hoặc chồng hiện tại. Trường hợp cha hoặc mẹ ruột đã kết hôn với người khác, phần di sản của người chết được xác định theo quy định về tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và Gia đình. Chỉ sau khi xác định được phần tài sản thuộc sở hữu riêng hoặc phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung của vợ chồng, phần tài sản đó mới được coi là di sản để chia thừa kế. Khi đó, con riêng chỉ được hưởng phần thừa kế trong phạm vi phần di sản thuộc quyền sở hữu của cha hoặc mẹ ruột, không có quyền yêu cầu chia phần tài sản thuộc sở hữu của người vợ hoặc chồng hiện tại.

4. Quyền thừa kế giữa con riêng và mẹ kế hoặc cha dượng

Bộ luật dân sự 2015 quy định về quyền thừa kế giữa con riêng và mẹ kế hoặc cha dượng như sau:

“Điều 654. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế

Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.”

“Điều 652. Thừa kế thế vị

Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.”

“Điều 653. Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ

Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này.”

Từ các quy định trên có thể thấy rằng: pháp luật chỉ công nhận quyền thừa kế giữa con riêng và mẹ kế hoặc cha dượng khi giữa họ có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con trên thực tế. Đây là điểm khác với quan hệ thừa kế theo huyết thống, vốn phát sinh tự động khi có quan hệ cha, mẹ và con hợp pháp, trừ trường hợp con riêng nhận thừa kế của mẹ kế hoặc cha dượng theo di chúc.

Khái niệm “quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con” hiện nay không được định nghĩa cụ thể trong bất kỳ điều luật nào, nhưng theo thực tiễn xét xử, để được công nhận là có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng như cha mẹ ruột, con riêng phải chứng minh được rằng giữa họ và mẹ kế hoặc cha dượng tồn tại sự quan tâm, gắn bó và trách nhiệm tương tự quan hệ cha mẹ, con ruột. Việc chứng minh có thể dựa vào nhiều yếu tố, như việc chu cấp tài chính thường xuyên (gửi tiền sinh hoạt, viện phí, chi phí khám chữa bệnh), sự chăm sóc tinh thần (thăm nom, đưa đi khám bệnh, lo liệu sinh nhật, tổ chức tang lễ), hoặc sự xác nhận của họ hàng, hàng xóm, tổ dân phố về mối quan hệ chăm sóc và gắn bó giữa hai bên.

Ví dụ, tại bản án 07/2018/DS-ST ngày 26-29/03/2018 về tranh chấp thừa kế, tòa sơ thẩm khi xem xét quyền thừa kế của con riêng đã nhận định như sau:

Cụ Đàm Văn C1 sinh năm 1922, chết năm 1996 có vợ cả là cụ Nguyễn Thị B1, sinh năm 1921 chết, năm 2008; cụ C1 có vợ hai là cụ Nguyễn Thị B, sinh năm 1928, chết năm 2016. Cụ C1 và cụ B1 khi chết đều không để lại di chúc. Cụ C1 và cụ B sinh được 3 người con lần lượt là: Đàm Thị T, sinh năm 1959; Đàm Văn V, sinh năm 1963 và Đàm Văn C, sinh năm 1963. Ngoài ra, cụ B còn có một người con riêng là Nguyễn Văn N sinh năm 1959.

Theo lời khai của các đương sự và tài liệu xác minh của Tòa án thì cụ B1 không có con chung với cụ C1, bà T và ông V tuy là con của cụ B và cụ C1 nhưng từ lúc còn nhỏ đã sống chung cùng một nhà và được cụ C1 và cụ B1 chăm sóc, nuôi dưỡng trực tiếp. Ông C ở với cụ B tại nhà khác nhưng vẫn cùng một thửa đất, khi cụ B1 chết bà T, ông V đều cùng có trách nhiệm chung lo tang ma do đó có căn cứ để xác định giữa cụ B1 bà T, ông V có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng.

Theo quy định tại Điều 654 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “con riêng và bố dượng , mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau…”. Như vậy trong trường hợp này cụ B1 và ông V, bà T đều có quyền được hưởng thừa kế di sản của nhau.”

Xem chi tiết bản án:

https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-ve-tranh-chap-thua-ke-cua-con-rieng-doi-voi-me-ke-so-072018dsst-29041

Kết luận

Con riêng có quyền thừa kế đối với di sản của cha hoặc mẹ ruột, không phân biệt tình trạng hôn nhân của cha mẹ tại thời điểm sinh ra hay tại thời điểm mở thừa kế. Chỉ cần chứng minh được quan hệ huyết thống, con riêng đương nhiên được hưởng di sản như con chung, theo hình thức: thừa kế theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật.

Tuy nhiên, quyền hưởng di sản của con riêng chỉ giới hạn trong phần tài sản thuộc quyền sở hữu của cha hoặc mẹ ruột, không mặc nhiên bao gồm phần tài sản của người vợ hoặc chồng hiện tại. Việc xác định di sản phải tuân thủ đúng quy định về tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và Gia đình.

Đối với quan hệ thừa kế giữa con riêng và mẹ kế hoặc cha dượng, pháp luật không mặc nhiên công nhận quyền thừa kế, mà chỉ phát sinh khi giữa hai bên tồn tại quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con trên thực tế.

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

Tin tức liên quan