24

Th11

NHỮNG SAI LẦM KHIẾN CHA/MẸ MẤT QUYỀN NUÔI CON DÙ THU NHẬP CAO HƠN

Trong các vụ án ly hôn, rất nhiều người nhầm lẫn rằng chỉ cần thu nhập cao là gần như chắc chắn được quyền nuôi con. Tuy nhiên, Tòa án không chỉ xét mức thu nhập, mà đánh giá toàn diện các yếu tố liên quan đến điều kiện sống, sự ổn định, khả năng chăm sóc thực tế, thời gian chăm sóc, đạo đức, lối sống, và đặc biệt là lợi ích tốt nhất cho trẻ theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

Khoản 1 Điều 6 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc HNGĐ đã quy định rõ:

“1. Khi xem xét “quyền lợi về mọi mặt của con” quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình phải đánh giá khách quan, toàn diện các tiêu chí sau đây:

a) Điều kiện, khả năng của cha, mẹ trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, bao gồm cả khả năng bảo vệ con khỏi bị xâm hại, bóc lột;

b) Quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi, được duy trì mối quan hệ với người cha, mẹ không trực tiếp nuôi;

c) Sự gắn bó, thân thiết của con với cha, mẹ;

d) Sự quan tâm của cha, mẹ đối với con;

đ) Bảo đảm sự ổn định, hạn chế sự xáo trộn môi trường sống, giáo dục của con;

e) Nguyện vọng của con được ở cùng với anh, chị, em (nếu có) để bảo đảm ổn định tâm lý và tình cảm của con;

g) Nguyện vọng của con được sống chung với cha hoặc mẹ.”

Do đó, nếu có những trường hợp dù cha, mẹ có thu nhập rất tốt nhưng vẫn bị Tòa giao con cho bên còn lại do mắc phải các sai lầm khi không đảm bảo đủ các điều kiện nêu trên. Dưới đây là các sai lầm phổ biến nhất khiến cha,mẹ có thu nhập tốt nhưng mất quyền nuôi con trên thực tế:

1. Không trực tiếp chăm sóc, bỏ mặc hoặc giao con cho người khác nuôi dưỡng thay

Nhiều người cho rằng “chỉ cần kiếm nhiều tiền, đảm bảo kinh tế để nuôi con, còn việc chăm con có ông/bà, người giúp việc lo” thì vẫn đủ điều kiện giành quyền nuôi con. Trên thực tế, theo điểm a khoản 1 Điều 6 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP, Tòa án phải xem xét khả năng trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của cha, mẹ, chứ không chỉ nhìn vào thu nhập hay bảng lương. Nếu trong suốt thời gian trước khi ly hôn hoặc kể cả sau khi ly hôn, người cha hoặc mẹ gần như vắng mặt khỏi đời sống hằng ngày của con, đi làm từ sáng tới tối, thường xuyên công tác xa, ít đưa đón con đi học, không trực tiếp chăm sóc khi con ốm đau, mọi việc ăn uống, học hành, sinh hoạt của con chủ yếu do bên kia, ông bà hoặc người giúp việc đảm nhiệm, thì Tòa sẽ ghi nhận rằng người đó không phải là người chăm sóc chính. Do đó khi giải quyết ly hôn hoặc yêu cầu thay đổi người nuôi dưỡng, Tòa án có thể xem xét ưu tiên giao con cho người có khả năng trực tiếp nuôi dưỡng, gắn bó với con trong thời gian dài hơn.

2. Không chứng minh được môi trường sống phù hợp, an toàn và ổn định cho trẻ

Nhiều người có thu nhập cao nhưng lại không chứng minh được mình có khả năng tạo cho trẻ một nơi ở ổn định, lâu dài và phù hợp với nhu cầu phát triển. Thực tế cho thấy không ít trường hợp cha, mẹ có điều kiện kinh tế tốt nhưng đang ở nhà thuê ngắn hạn, những chỗ ở không ổn định, thường xuyên chuyển chỗ ở, hoặc sống trong môi trường không bảo đảm an toàn như ở ghép, ở chung cư mini nhiều người ra vào, không có phòng riêng cho trẻ, không gần trường học và cơ sở y tế hoặc đã lập gia đình có gia đình riêng, đã có con chung với người khác. Tòa cũng có thể cho rằng trẻ có nguy cơ bị xáo trộn nếp sống, thiếu sự ổn định về tâm lý và giáo dục. Trong khi đó, bên còn lại dù thu nhập thấp hơn nhưng có nhà ở ổn định lâu dài, gần trường học, có ông bà hỗ trợ chăm nom và tạo được môi trường sinh hoạt phù hợp với độ tuổi của trẻ sẽ thường được ưu tiên giao quyền nuôi dưỡng vì bảo đảm tốt yếu tố ổn định đời sống của con. Do đó, nếu không chứng minh được nơi ở an toàn, ổn định và đáp ứng nhu cầu phát triển của trẻ, cha, mẹ rất dễ mất quyền nuôi con, kể cả khi mức thu nhập cao hơn người còn lại.

3. Có hành vi bạo lực gia hoặc có lối sống không lành mạnh, vi phạm đạo đức hoặc pháp luật

Theo Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2022 quy định về Hành vi bạo lực gia đình như sau:

“Điều 3. Hành vi bạo lực gia đình

1. Hành vi bạo lực gia đình bao gồm:

a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập, đe dọa hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng;

b) Lăng mạ, chì chiết hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

c) Cưỡng ép chứng kiến bạo lực đối với người, con vật nhằm gây áp lực thường xuyên về tâm lý;

d) Bỏ mặc, không quan tâm; không nuôi dưỡng, chăm sóc thành viên gia đình là trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc; không giáo dục thành viên gia đình là trẻ em;

đ) Kỳ thị, phân biệt đối xử về hình thể, giới, giới tính, năng lực của thành viên gia đình;

…”

Đây đều là các hành vi xâm hại nghiêm trọng đến sức khỏe, tinh thần và sự phát triển nhân cách của trẻ. Vì vậy, nếu cha hoặc mẹ có các hành vi nêu trên, Tòa án sẽ ưu tiên giao con cho người đảm bảo được môi trường sống an toàn và không gây tổn thương cho trẻ. Bên cạnh đó, Tòa còn xem xét toàn diện về môi trường đạo đức, tâm lý và lối sống của cha mẹ, bởi trẻ cần được lớn lên trong không gian ổn định và lành mạnh. Nếu lối sống thiếu lành mạnh như nghiện rượu, bia, cờ bạc, chất kích thích, tụ tập thâu đêm, thường xuyên có hành vi gây rối mất trật tự công cộng hoặc tham gia hoạt động phi pháp khiến thì tòa có thể đánh giá rằng người đó không đủ khả năng tạo ra môi trường sống ổn định và an toàn, từ đó mất đi lợi thế khi xét giao quyền nuôi con kể cả khi có thu nhập tốt hơn người còn lại.

4. Nguyện vọng của trẻ

Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định Tòa án phải “xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên”. Điều này có nghĩa là trong quá trình giải quyết ly hôn, Tòa án sẽ lấy ý kiến của trẻ xem trẻ mong muốn sống với cha hay với mẹ. Tuy nhiên, nguyện vọng của trẻ chỉ mang tính tham khảo, định hướng cho Tòa án, chứ không phải yếu tố mang tính quyết định hoàn toàn, vì còn phải đồng thời các yếu tố khác như chỗ ở, môi trường sống, sự ổn định, thu nhập, thời gian chăm sóc, sự gắn bó, tư cách đạo đức, lối sống của mỗi bên.

Nếu trong trường hợp tất cả các điều kiện khác đều đảm bảo, và trẻ cũng bày tỏ mong muốn được sống cùng người đang tạo cho trẻ môi trường ổn định (ví dụ: được ở cùng anh chị em ruột, ở cùng ông bà đã gắn bó từ nhỏ, không phải thay đổi nơi ở, trường học…), thì Tòa án sẽ ưu tiên xem xét theo nguyện vọng của trẻ, vì điều này phù hợp với nguyên tắc đảm bảo lợi ích tốt nhất và sự ổn định tâm lý của trẻ. Do đó, mặc dù một bên có thu nhập cao hơn, nhưng bên còn lại vẫn đảm bảo đủ điều kiện kinh tế và nuôi dưỡng, đồng thời nguyện vọng của trẻ nghiêng về phía người đó, thì khả năng Tòa án giao con cho bên còn lại sẽ cao hơn, bởi quyết định cuối cùng phải đặt lợi ích mọi mặt của trẻ lên hàng đầu, thay vì chỉ dựa trên khả năng tài chính của cha hoặc mẹ.

Thực tiễn xét xử trong việc giao quyền nuôi dưỡng, chăm sóc con khi giải quyết khi hôn tại Tòa án

Bản án 1: Bản án 06/2024/DS-PT ngày 09/04/2024 về tranh chấp quyền nuôi con và quyền giám hộ

Tại bản án này khi xem xét giao quyền nuôi con, tòa án đã có nhận định:

“[4] Nguyện vọng của cháu Lê Thị Huyền T1 thể hiện tại văn bản ngày 04/02/2023 (bút lục 35) cũng như tại biên bản lấy lời khai cháu T1 ngày 13-9- 2023 có sự chứng kiến của bà Lê Hồng P, Chủ tịch Hội phụ nữ xã T thì cháu có nguyện vọng muốn sống với bà L. Hiện tại cháu T1 đã quen với điều kiện, môi trường sống và được bà L nuôi dưỡng, chăm sóc trong điều kiện tốt nhất, nếu giao cháu cho anh Đ nuôi dưỡng sẽ dẫn đến sự xáo trộn môi trường sống làm ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của cháu.

[5] Đối với anh Lê Phát Đ dù có công việc và thu nhập ổn định nhưng anh cũng đang nuôi cháu Lê Trọng H, là em ruột của cháu T1 và cũng đang sống chung với người phụ nữ khác. Như vậy bên cạnh việc chăm lo cho con, anh còn bị chi phối phải lo cho cuộc sống riêng của anh nên sẽ không chăm sóc cháu T1 đảm bảo bằng bà L.

[6] Tòa án sơ thẩm đã xem xét đánh giá toàn diện, quyết định giao cháu T1 cho bà L tiếp tục nuôi dưỡng là có căn cứ. Kháng cáo của anh Lê Phát Đ là không có căn cứ chấp nhận.”

Như vậy: Bản án trên, Mặc dù người cha có thu nhập ổn định, nhưng việc anh đang phải chăm con nhỏ khác, sống chung với người phụ nữ khác và bị chi phối bởi cuộc sống riêng khiến anh không đảm bảo được khả năng chăm sóc cho con chung tốt bằng mẹ. Do đó, Tòa án đã quyết định giao quyền nuôi con cho mẹ.

Xem chi tiết bản án:

https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-ve-tranh-chap-quyen-nuoi-con-va-quyen-giam-ho-so-062024dspt-335247?utm_source=chatgpt.com

Bản án 2: Bản án số: 12/2024/HNGĐ-PT ngày 24/09/2024

“Tuy nhiên, theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bên đương sự thể hiện chị T có mức thu nhập hàng tháng là 11.873.024 đồng, anh L có mức thu nhập hàng tháng là 15.534.480 đồng. Hiện tại, anh L đã có gia đình riêng và có thêm con nhỏ và đang chăm sóc, nuôi dưỡng mẹ già; đồng thời đang phải trả các khoản nợ vay ngân hàng, còn chị T hiện đang độc thân và chỉ nuôi một mình cháu K. Xét mức thu nhập, hoàn cảnh gia đình, điều kiện kinh tế của các bên, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T và buộc  anh L phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng, mỗi tháng 2.500.000 đồng là phù  hợp,…”

Như vậy: Đối với bản án trên, mặc dù người cha có thu nhập cao hơn mẹ, nhưng do anh đang gánh nhiều trách nhiệm gồm gia đình mới, con nhỏ, mẹ già và các khoản nợ ngân hàng, trong khi đó, mẹ cháu còn độc thân, chỉ nuôi một mình cháu, có thời gian và điều kiện tập trung hơn cho việc chăm sóc con. Nên Tòa án đánh giá người cha không có điều kiện chăm sóc con ổn định bằng mẹ, Do đó, quyết định giao con cho mẹ nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện thực tế và lợi ích của trẻ.

Xem chi tiết bản án:

https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta1616451t1cvn/chi-tiet-ban-an?utm_source=chatgpt.com

Bản án 3: Bản án 40/2022/HNGĐ-ST ngày 10/08/2022 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Tòa án nhận định:

[4] Về con chung: Chị T và anh Đ có 02 con chung là Hoàng Ngọc B, sinh ngày 11/5/2009 và Hoàng Thanh L, sinh ngày 28/9/2019. Chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung không yêu cầu anh Hoàng Đình Đ cấp dưỡng nuôi con. Ý kiến của con Hoàng Ngọc B xin được ở cùng bố là anh Hoàng Đình Đ Qua xác minh tại địa phương chị T, anh Đ đều là lao động có thu nhập, có điều kiện để nuôi dưỡng con chung. Nhận thấy, các con chung hiện còn nhỏ, anh Đ là người sử dụng trái phép chất ma túy, không có mặt tại tòa án là từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình. Để đảm bảo việc chăm lo, giáo dục con trẻ phát lành mạnh về thể chất, trí tuệ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ và con chưa thành niên, cần giao cả hai con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Hoàng Đình Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp với thực tế và phù hợp quy định tại các Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.”

Như vậy: Tại bản án này, dù con có nguyện vọng sống với cha và cả hai bên đều có thu nhập, Tòa án vẫn không giao con cho người cha bởi anh sử dụng trái phép chất ma túy, không có mặt tại Tòa, thể hiện việc từ bỏ trách nhiệm nuôi dưỡng và không bảo đảm môi trường sống an toàn cho trẻ.

Kết luận

Thu nhập cao hơn không đồng nghĩa với việc chắc chắn được quyền nuôi con. Thực tiễn xét xử cho thấy Tòa án luôn đánh giá toàn diện các yếu tố, từ khả năng trực tiếp chăm sóc, môi trường sống, sự ổn định tâm lý, lối sống và đạo đức cho đến nguyện vọng của trẻ. Người được giao quyền nuôi con không phải là người giàu hơn, mà là người bảo đảm tốt nhất mọi điều kiện để trẻ phát triển an toàn, lành mạnh và ổn định. Vì vậy, cha hoặc mẹ dù có thu nhập cao nhưng không đáp ứng các yêu cầu về thời gian chăm sóc, môi trường sống, sự gắn bó hoặc có lối sống không lành mạnh vẫn có thể mất quyền nuôi con; ngược lại, bên có điều kiện phù hợp hơn với lợi ích của trẻ mới là người được Tòa án ưu tiên giao con.

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

Tin tức liên quan