CỐ TÌNH KHÔNG THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG, CÓ BỊ XỬ LÝ HÌNH SỰ?
Nghĩa vụ cấp dưỡng là một trách nhiệm pháp lý và đạo đức căn bản, nhằm đảm bảo quyền lợi thiết yếu về vật chất và tinh thần cho người thân (như con cái, cha mẹ, vợ/chồng cũ) khi họ không thể tự nuôi sống mình. Tuy nhiên, trên thực tế, tình trạng cố tình trốn tránh, không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng diễn ra khá phổ biến, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người được cấp dưỡng.
Vậy, hành vi cố tình không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có thể bị xử lý bằng biện pháp mạnh nhất của pháp luật là truy cứu trách nhiệm hình sự hay không?
1. Cấp dưỡng là gì?
Theo khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này.”
Như vậy có thể hiểu “cấp dưỡng” là trách nhiệm vật chất của một người trong việc hỗ trợ nuôi sống người thân thuộc khi người đó không thể tự bảo đảm cuộc sống cho chính mình. Trách nhiệm này thường phát sinh trong các mối quan hệ gia đình như: giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng sau ly hôn, hoặc giữa các thành viên có nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật.
2. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định
Theo khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”
Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con”.
Như vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng không chỉ phát sinh sau khi cha mẹ ly hôn, mà còn có thể phát sinh trong trường hợp vẫn sống chung với con nhưng người có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con. Đối tượng được cấp dưỡng bao gồm:
(i) Con chưa thành niên: Theo khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015, người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi. Trường hợp cha mẹ ly hôn khi con chưa đủ tuổi này, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ chi trả tiền cấp dưỡng cho đến khi con trưởng thành.
(ii) Con đã thành niên nhưng thuộc diện đặc biệt: Cụ thể, đó là những người con đã đủ 18 tuổi nhưng không có khả năng lao động (có thể do bệnh tật, khuyết tật, mất năng lực hành vi dân sự…) và đồng thời không có tài sản để tự lo liệu cuộc sống.
Thực tế, có rất nhiều trường hợp con không có khả năng lao động nhưng vẫn có tài sản để tự nuôi mình. Vậy khi nào thì một người được coi là “không có khả năng lao động” và “không có tài sản để tự nuôi mình”. Hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể để xác định việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Thực tế hiện nay, việc nhận định “không có khả năng lao động” tùy thuộc vào sự đánh giá của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong từng vụ án cụ thể.
3. Trường hợp được chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng
Căn cứ Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ chấm dứt khi thuộc một trong các trường hợp sau:
(i) Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động và có tài sản để tự nuôi mình
Ví dụ: Con trai của anh H tròn 19 tuổi, đã có việc làm ổn định với thu nhập hàng tháng, đồng thời có một tài khoản tiết kiệm đứng tên. Trong trường hợp này, anh H có quyền đề nghị chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng vì con đã tự lo được cuộc sống.
(ii) Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi.
Khi người con được người khác nhận làm con nuôi và thực hiện thủ tục theo đúng quy định pháp luật, nghĩa vụ cấp dưỡng của cha/mẹ ruột chấm dứt vì quan hệ nuôi dưỡng đã được chuyển giao hợp pháp cho người nhận nuôi.
(iii) Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng
(iv) Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết
Khi một trong hai bên qua đời, quan hệ cấp dưỡng đương nhiên chấm dứt vì không thể tiếp tục thực hiện được nghĩa vụ tài chính hoặc quyền được nhận cấp dưỡng.
(v) Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn
Trường hợp này không áp dụng cho nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con, mà chỉ áp dụng với cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau ly hôn. Khi người được cấp dưỡng tái hôn, nghĩa vụ giữa vợ/chồng cũ sẽ chấm dứt.
(vi) Trường hợp khác theo quy định của luật.
4. Chế tài đối với hành vi không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con của cha, mẹ sau ly hôn
(1) Xử phạt hành chính
Căn cứ theo quy định tại Điều 43 Nghị định 282/2025/NĐ-CP có quy định về xử phạt hành vi vi phạm quy định về chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng
“1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn; từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa anh, chị, em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu theo quy định của pháp luật;
b) Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng cha, mẹ; nghĩa vụ cấp dưỡng, chăm sóc con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.
2. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc thực hiện nghĩa vụ đóng góp, nuôi dưỡng theo quy định đối với các hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều này.”
(2) Truy cứu trách nhiệm hình sự
Theo như quy định tại Điều 186 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 37 Điều 1 Bộ luật Hình sự sửa đổi 2017 quy định cụ thể về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng:
“Điều 186. Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 380 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Như vậy, để cấu thành tội này, cần đồng thời có đủ ba yếu tố: (1) có nghĩa vụ cấp dưỡng hợp pháp; (2) cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ; (3) đã bị xử phạt hành chính mà tiếp tục vi phạm và gây hậu quả nghiêm trọng.
KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:
[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng – Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.
[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.
[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com
[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:
Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …