25

Th7

CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, chứng cứ được xem là cơ sở chứng minh, xác định sự thật khách quan nhằm giúp cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án kết luận đúng về hành vi phạm tội đã xảy ra. Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 cũng nêu rõ: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.” (Điều 15). Vậy chứng cứ là gì? chứng cứ được thu thập như thế nào và việc đánh giá chứng cứ được thực hiện như thế nào theo quy định pháp luật? Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.

1. Chứng cứ là gì?

Căn cứ theo Điều 86 BLTTHS thì Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.

Như vậy, có thể hiểu Chứng cứ trong vụ án hình sự là những tình tiết, sự kiện có thật phản ánh sự thật khách quan, được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định mà cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ để chứng minh tính chân lý của vụ án.

2. Nguồn của chứng cứ

Chứng cứ có thể được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau. Trong đó, Điều 87 BLTTHS 2015 quy định, nguồn của chứng cứ bao gồm:

a) Vật chứng;

Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án (Điều 89 BLTTHS).

Vật chứng phải được bảo quản nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn, hư hỏng. Việc bảo quản vật chứng được thực hiện theo Điệu 90 BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành.

b) Lời khai, lời trình bày;

Lời khai, lời trình bày được xem là nguồn chứng cứ có thể là lời khai, lời trình bày của Người làm chứng, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hay lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt, bị tạm giữ; Lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt, bị tạm giữ….Trong đó:

– Đối với người làm chứng (Điều 91 BLTTHS)

Người làm chứng trình bày những gì mà họ biết nguồn tin về tội phạm, về vụ án, nhân thân của người bị buộc tội, bị hại, quan hệ giữa họ với người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng khác và trả lời những câu hỏi đặt ra. Lời khai của người làm chứng không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.

– Đối với lời khai của bị hại (Điều 92 BLTTHS)

Bị hại trình bày những tình tiết về nguồn tin về tội phạm, vụ án, quan hệ giữa họ với người bị buộc tội và trả lời những câu hỏi đặt ra. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do bị hại trình bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.

– Đối với lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự (Điều 93 BLTTHS)

Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trình bày những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra. Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trình bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.

– Đối với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (Điều 94 BLTTHS)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày những tình tiết trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.

– Đối với lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt, bị tạm giữ (Điều 95 BLTTHS)

Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt, bị tạm giữ trình bày những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm.

– Lời khai của người tố giác, báo tin về tội phạm là lời trình bày những tình tiết liên quan đến việc họ tố giác, báo tin về tội phạm (Điều 97 BLTTHS)

– Lời khai của người chứng kiến là những tình tiết mà họ đã chứng kiến trong hoạt động tố tụng (Điều 97 BLTTHS)

– Đối với lời khai của bị can, bị cáo (Điều 98 BLTTHS)

Bị can, bị cáo trình bày những tình tiết của vụ án. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.

c) Dữ liệu điện tử

– Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử.

– Dữ liệu điện tử được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác.

– Giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử được xác định căn cứ vào cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi dữ liệu điện tử; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác.

(Điều 99 BLTTHS)

d) Kết luận giám định, định giá tài sản;

– Kết luận giám định là văn bản do cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức giám định lập để kết luận chuyên môn về những vấn đề được trưng cầu, yêu cầu giám định. Cơ quan, tổ chức, cá nhân kết luận về vấn đề được trưng cầu, yêu cầu giám định và phải chịu trách nhiệm về kết luận đó. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không đồng ý với kết luận giám định thì phải nêu rõ lý do, nếu kết luận chưa rõ hoặc chưa đầy đủ thì quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại theo thủ tục chung quy định tại BLTTHS. Kết luận giám định của người được trưng cầu giám định thuộc trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án (Điều 100 BLTTHS)

– Kết luận định giá tài sản là văn bản do Hội đồng định giá tài sản lập để kết luận về giá của tài sản được yêu cầu. Hội đồng định giá tài sản kết luận giá của tài sản và phải chịu trách nhiệm về kết luận đó. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không đồng ý với kết luận định giá tài sản thì phải nêu rõ lý do; nếu kết luận chưa rõ thì quyết định định giá lại theo thủ tục chung quy định tại BLTTHS. Kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản vi phạm quy định của BLTTHS, quy định khác của pháp luật về định giá thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án (Điều 101 BLTTHS 2015)

đ) Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;

Điều 102 BLTTHS quy định, những tình tiết được ghi trong biên bản về hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được lập theo quy định của BLTTHS  có thể được coi là chứng cứ.

e) Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác;

Những tình tiết được ghi trong biên bản về hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được lập theo quy định của BLTTHS có thể được coi là chứng cứ (Điều 103 BLTTHS)

g) Các tài liệu, đồ vật khác.

Những tình tiết liên quan đến vụ án ghi trong tài liệu, đồ vật do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp có thể được coi là chứng cứ. Trường hợp tài liệu, đồ vật này có đặc điểm quy định tại Điều 89 của BLTTHS thì được coi là vật chứng.

Lưu ý, BLTTHS quy định rõ: “Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự.”

3. Thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong hoạt động tố tụng hình sự

Mục đích của hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra vụ án là làm rõ sự thật, xác định chứng cứ có giá trị chứng minh đáp ứng yêu cầu điều tra. Khi kiểm tra đánh giá chứng cứ cần xem xét, đối chiếu những thông tin đã thu thập được, sử dụng hiểu biết về thế giới khách quan, thông tin tri thức và kinh nghiệm giải quyết các vụ án hình sự.

* Về thu thập chứng cứ

Hoạt động thu thập chứng cứ là hoạt động đầu tiên của quá trình chứng minh trong vụ án hình sự. Hoạt động này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với toàn bộ quá trình chứng minh, để ghi nhận chứng cứ và thu giữ chứng cứ. Bản chất của hoạt động thu thập chứng cứ bao gồm tổng hợp các công đoạn chính là – ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ. Tất cả các quá trình này đều được thực hiện theo quy định của BLHS và các văn bản hướng dẫn.

Trong quá trình thu thập chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải đảm bảo: (i) Việc thu thập chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ cả các chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội; (ii) Việc thu thập chứng cứ phải được thực hiện bởi cơ quan có thẩm quyền bao gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; (iii) Tất cả các chứng cứ khi được phát hiện, thu giữ phải được ghi nhận vào văn bản tố tụng tương ứng, theo đúng quy định và thời hạn của pháp luật tố tụng hình sự; (iv) Việc thu thập chứng cứ phải được tiến hành kịp thời theo các yêu cầu đặt ra và đúng pháp luật.

Nếu chứng cứ không được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì sẽ không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự.

* Về kiểm tra chứng cứ

Khoản 1 Điều 108 BLTTHS quy định rõ: Mỗi chứng cứ phải được kiểm tra, đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định những chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải kiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ đã thu thập được về vụ án.

Như vậy, có thể hiểu, hoạt động kiểm tra chứng cứ, thực chất là việc xem xét lại quá trình thu thập chứng cứ, kiểm tra tính hợp pháp trong việc thu thập chứng cứ và phải đảm bảo: (i) Tính khách quan và mức độ tin cậy của chứng cứ; (ii) So sánh, đối chiếu để đảm bảo sự phù hợp với nhau giữa các chứng cứ thu thập trước và sau so với thực tế khách quan của vụ án; (iii) Chứng cứ phải được kiểm tra toàn diện, đầy đủ.

* Về đánh giá chứng cứ

Đánh giá chứng cứ là hoạt động cuối cùng của chuỗi các hoạt động trong quá trình chứng minh, thông qua hoạt động này, chủ thể có thẩm quyền khẳng định giá trị chứng minh của từng chứng cứ trong vụ việc và mối liên hệ biện chứng giữa các chứng cứ. Chủ thể duy nhất có thẩm quyền thực hiện hoạt động này là tòa án. Cụ thể, tại Điều 108 BLTTHS năm 2015 có quy định “1. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác; 2. Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định tính hợp pháp, tính liên quan, giá trị chứng minh của từng chứng cứ.”. Đây là các yêu cầu đặt ra đối với hoạt động đánh giá chứng cứ.

Như vậy có thể thấy, việc đánh giá chứng cứ của vụ án hình sự phụ thuộc vào năng lực, trình độ của Thẩm phán là người được phân công giải quyết vụ án dựa trên các nguyên tắc: (1) Nguyên tắc vô tư, khách quan và toàn diện, (2) Nguyên tắc độc lập, khoa học, (3) Nguyên tắc suy đoán vô tội. Do đó, có thể thấy trong thực tiễn xét xử, cùng một hồ sơ vụ án, cùng một chứng cứ trong vụ án, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm quyết định giải quyết vụ án khác với quyết định giải quyết vụ án của Tòa án cấp phúc thẩm hoặc quyết định giải quyết vụ án của Tòa án cấp giám đốc thẩm.

4. Sử dụng chứng cứ trong tố tụng

Trong quá trình chứng minh ở các giai đoạn tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải sử dụng chứng cứ để ra quyết định tố tụng. Các quyết định tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử bất kỳ một vụ án hình sự nào đều phải sử dụng các chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án để phân tích, đánh giá, lập luận trước khi đưa ra các quyết định tố tụng quan trọng trong việc giải quyết vụ án hình sự như: Cơ quan điều tra phải sử dụng các chứng cứ để quyết định khởi tố và điều tra vụ án, Viện kiểm sát phải sử dụng chứng cứ để làm căn cứ có ra quyết định truy tố hay không truy tố, Hội đồng xét xử phải sử dụng các chứng cứ đã được kiểm tra, đánh giá để tuyên bố một người có tội và phải chịu hình phạt hay không phạm tội và được trả tự do.

Về việc sử dụng chứng cứ trong quá trình tố tụng, Điều 26 BLTTHS 2015 nêu rõ:

– Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

– Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp.

– Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.

– Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

Ngoài ra cũng cần lưu ý đối với việc sử dụng các chứng cứ như: Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội họ.

 

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

 

Tin tức liên quan