31

Th5

Hợp đồng đặt cọc và những lưu ý khi giao kết hợp đồng đặt cọc

Thực hiện ký kết hợp đồng đặt cọc là một trong các hình thức được sử dụng phổ biến trong các giao dịch mua bán hiện nay như: Nhà đất, xe, … và các tài sản khác với mục đích để chắc chắn hơn về tài sản mình chuẩn bị mua không bị chuyển nhượng cho người khác. Trên thực tế, có không ít người chỉ giao kết hợp đồng đặt cọc rất đơn giản và sơ sài, dẫn đến giao dịch chính không thực hiện được do một bên vi phạm hợp đồng đặt cọc. Vậy, đặt cọc như thế nào là hợp pháp và có giá trị pháp lý? Các bên cần quan tâm gì khi giao kết hợp đồng đặt cọc. Cùng tham khảo các vấn đề này qua bài viết dưới đây Luật 3S.

 

I. CƠ SỞ PHÁP LÝ

– Bộ luật dân sự 2015;

– Nghị định 21/2021/NĐ-CP thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

 

II. HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC LÀ GÌ?

Theo khoản 1 điều 328 BLDS 2015 quy định: “Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.”

Như vậy, Hợp đồng đặt cọc là hợp đồng được lập ra với mục đích: Để đảm bảo giao kết một giao dịch dân sự khác hoặc để thực hiện một hợp đồng dân sự đã giao kết đúng với thỏa thuận.

Ví dụ: A muốn thuê trọ của B trong một năm, để đảm bảo việc A sẽ thuê và B sẽ cho thuê như đã thỏa thuận thì A đặt cọc cho B một triệu đồng.

 

III. GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC

1. Hình thức của hợp đồng đặt cọc

Bộ luật dân sự hiện hành không quy định cụ thể hình thức của hợp đồng đặt cọc phải lập bằng văn bản hay phải tuân thủ hình thức, nội dung cụ thể nào đó. Như vậy, có thể hiểu, các bên có thể giao kết hợp đồng bằng nhiều hình thức khác nhau: Có thể bằng văn bản, bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể, tất cả đều có giá trị pháp lý và được pháp luật công nhận.

2. Công chứng hợp đồng đặt cọc.

BLDS 2015 hay Luật Công chứng 2014 và văn bản hướng dẫn thi hành hiện nay đều không có điều khoản quy định hợp đồng đặt cọc bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực.

Tuy nhiên, để đảm bảo tính pháp lý của Hợp đồng này, việc công chứng, chứng thực là cần thiết để tránh xảy ra tranh chấp sau này. Bởi, trong quá trình Tòa án giải quyết tranh chấp, hợp đồng công chứng có giá trị chứng cứ. Những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng này không phải chứng minh, trừ trường hợp hợp đồng vô hiệu (Điều 92, điều 94 BLTTDS 2015)

3. Các trường hợp hợp đồng đặt cọc bị vô hiệu.

Hợp đồng đặt cọc mang bản chất của một giao dịch dân sự, vì vậy, khi hợp đồng đặt cọc không đáp ứng các điều kiện của một giao dịch dân sự có hiệu lực thì sẽ bị coi là vô hiệu. Theo đó, BLDS 2015 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sực có hiệu lực như sau:

 “Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”.

“Điều 407. Hợp đồng vô hiệu

1. Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu.

….”

Như vậy, khi hợp đồng đặt cọc thuộc các trường hợp nêu trên sẽ bị coi là vô hiệu.

4. Hậu quả pháp lý của hợp đồng đặt cọc.

Theo đó, khoản 2 Điều 328 BLDS 2015 quy định:

– Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền;

– Nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc;

– Nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

Lưu ý: Trong thực tế, có trường hợp một bên trong hợp đồng giao cho bên kia một khoản tiền mà các bên không xác định rõ là tiền đặt cọc hay tiền trả trước thì số tiền này được coi là tiền trả trước (Điều 37 Nghị định 21/2021/NĐ-CP)

 

IV. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC BÊN TRONG HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC

1. Quyền và nghĩa vụ của Bên đặt cọc.

– Yêu cầu bên nhận đặt cọc ngừng việc khai thác, sử dụng hoặc xác lập giao dịch dân sự đối với tài sản đặt cọc, tài sản ký cược; thực hiện việc bảo quản, giữ gìn để tài sản đặt cọc không bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị;

– Trao đổi, thay thế tài sản đặt cọc hoặc đưa tài sản đặt cọc tham gia giao dịch dân sự khác trong trường hợp được bên nhận đặt cọc đồng ý;

– Thanh toán cho bên nhận đặt cọc chi phí hợp lý để bảo quản, giữ gìn tài sản đặt cọc.

Chi phí hợp lý quy định tại điểm này là khoản chi thực tế cần thiết, hợp pháp tại thời điểm chi mà trong điều kiện bình thường bên nhận đặt cọc, bên nhận ký cược phải thanh toán để đảm bảo tài sản đặt cọc không bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng;

– Thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu tài sản hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật để bên nhận đặt cọc được sở hữu tài sản đặt cọc quy định tại điểm b khoản 2 Điều 38 Nghị định 21/2021/NĐ-CP;

– Quyền, nghĩa vụ khác theo thỏa thuận hoặc do Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan quy định.

(khoản 1 Điều 38 Nghị định 21/2021/NĐ-CP)

2. Quyền và nghĩa vụ của Bên nhận đặt cọc

– Yêu cầu bên đặt cọc chấm dứt việc trao đổi, thay thế hoặc xác lập giao dịch dân sự khác đối với tài sản đặt cọc khi chưa có sự đồng ý của bên nhận đặt cọc;

– Sở hữu tài sản đặt cọc trong trường hợp bên đặt cọc vi phạm cam kết về giao kết, thực hiện hợp đồng;

– Bảo quản, giữ gìn tài sản đặt cọc;

– Không xác lập giao dịch dân sự, khai thác, sử dụng tài sản đặt cọc khi chưa có sự đồng ý của bên đặt cọc;

– Quyền, nghĩa vụ khác theo thỏa thuận hoặc do Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan quy định.

(khoản 2 Điều 38 Nghị định 21/2021/NĐ-CP)

 

V. MỘT SỐ LƯU Ý KHI GIAO KẾT HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC

1. Cân nhắc lý do đặt cọc.

Chúng ta đều nhận thấy việc đặt cọc thường được diễn ra với những hoàn cảnh cụ thể và lý do của nó. Hầu hết người ta chỉ đặt cọc khi mà giao dịch chính thức chưa thể thực hiện được vì lý do nào đó. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn rất nhiều trường hợp đặt cọc vì những lý do chưa thực sự cần thiết, dẫn đến rủi ro cho một bên.

Ví dụ, trong giao dịch bất động sản, trong khi bên bán đã sẵn sàng để bàn giao tài sản và bên mua đã có đủ tiền để mua. Tuy nhiên, các bên vẫn đặt cọc như một thói quen, mà lý do đặt cọc lại không xuất phát từ việc một bên thiếu vốn hay một bên không sẵn sàng để chuyển giao tài sản, mà lý do để các bên đặt cọc đôi khi đơn giản chỉ là để chọn ngày đẹp để mua bán hoặc cứ cọc để đó mà chẳng có lý do.

Hầu hết, các bên sau khi ký kết hợp đồng đặt cọc đều mang tâm lý nhẹ nhõm vì họ nghĩ rằng, giao dịch gần như chắc chắn sẽ được xác lập. Tuy nhiên, họ không nhận ra, đây chính là thời điểm mà họ phải gánh chịu những rủi ro đầu tiên trong quá trình giao dịch mua bán, bởi trong đại đa số các giao dịch đặt cọc, bên đặt cọc chỉ dựa vào sự cảm nhận và tin tưởng đối với bên nhận đặt cọc mà giao tài sản chứ không có bất kỳ biện pháp bảo đảm bổ sung nào để bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền cọc và tiền phạt cọc của bên nhận cọc. Một số rủi ro các bên sẽ hay gặp trong giai đoạn này, cụ thể như: (i) Bên nhận đặt cọc có thể nhận tiền cọc của nhiều người và bỏ trốn hoặc; (ii) Bên nhận đặt cọc trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ, tìm nhiều lý do để lợi dụng, chiếm dụng tiền cọc sử dụng vào việc khác trong thời gian dài hoặc; (iii) Bên nhận đặt cọc chấp nhận phá cọc nhưng gây khó khăn, quỵt tiền cọc, không chấp nhận nộp phạt cọc…

Bên nhận đặt cọc vi phạm hợp đồng cọc, và bên đặt cọc có quyền khởi kiện ra tòa để đòi, nhưng rõ ràng việc khởi kiện ra tòa án chưa bao giờ là lựa chọn dễ dàng vì quá trình tố tụng diễn ra thường mất rất nhiều thời gian, chi phí và công sức, cho dù có thắng kiện thì việc thu hồi số tiền cũng không thể nhanh chóng và dễ dàng. Chính vì vậy, đặt cọc luôn cần một lý do chính đáng và cần phải cân nhắc, cân đối giữa yếu tố rủi ro với việc giải quyết lý do đó, cái nào có lợi hơn chứ không nên lạm dụng việc đặt cọc.

2. Không nên xem nhẹ nội dung hợp đồng đặt cọc.

Vì Hợp đồng đặt cọc mang bản chất của một giao dịch dân sự theo sự thỏa thuận của các bên, nên khi Hợp đồng đặt cọc đáp ứng điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực thì nó sẽ có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, việc hợp đồng đặt cọc có hiệu lực không đồng nghĩa nó không tồn tại rủi ro pháp lý, đặc biệt là những rủi ro bên trong nội dung của hợp đồng. Nhất là khi hợp đồng này không thuộc trường hợp bắt buộc phải công chứng, chứng thực.

Trong thực tế, đã có rất nhiều vụ tranh chấp về đặt cọc cho thấy hợp đồng đặt cọc chỉ quy định nghĩa vụ của hai bên phải bán, phải mua với nhau chứ không có các điều kiện, điều khoản cơ bản của hợp đồng mua bán; đến khi chính thức ký hợp đồng mua bán thì hai bên không thể thống nhất được nội dung mua bán với nhau, từ đó hai bên đổ lỗi cho nhau và không xác định được ai là người vi phạm cọc.

Thông thường, khi hai bên gặp khó trong việc ký hợp đồng mua bán thì bên đặt cọc sẽ là người đối diện với rủi ro đầu tiên. Tuy nhiên, cũng có trường hợp bên đặt cọc bỏ cọc và biến mất, chấp nhận mất số tiền đã đặt, thì lúc này bên nhận đặt cọ cũng là bên gặp rủi ro không kém. Vì hợp đồng đặt cọc đã công chứng và được đưa lên cơ sở dữ liệu công chứng, hợp đồng cọc không rõ ràng, dù đã quá hạn nhưng công chứng viên không thể và không có tư cách pháp lý để kết luận bên nào vi phạm cọc, kết quả là công chứng viên không thể đồng ý chứng nhận cho bên nhận đặt cọc bán tài sản cho người khác. Vì vậy, để giải quyết vấn đề, bên nhận đặt cọc phải đưa vụ việc ra Tòa để giải quyết.

Do đó, để các bên có thể thực hiện được nghĩa vụ của mình đã cam kết; để xác định rõ trách nhiệm của mỗi bên khi có bất đồng và để tránh rủi ro cho cả hai bên thì hợp đồng cọc nên quy định rõ về các điều kiện bảo đảm mà còn phải quy định rõ các điều khoản, điều kiện của hợp đồng chính mà hai bên sẽ giao kết. Riêng đối với hợp đồng đặt cọc được công chứng, cần quy định rõ điều kiện và cách thức để tài sản có thể được giải phóng khi bên đặt cọc bỏ cọc hoặc cách thức xác định ai là người có lỗi khi hết thời hạn cọc mà hợp đồng chính các bên hướng tới không được giao kết, thực hiện. Có như thế mới đảm bảo được rủi ro pháp lý đối với nội dung hợp đồng đặt cọc.

3. Tư cách của bên nhận đặt cọc.

Trong thực tế, có nhiều trường hợp bên nhận đặt cọc không phải là chủ sở hữu thật sự của tài sản mà bên mua muốn đặt cọc. Theo quy định của BLDS 2015 thì mục đích của việc đặt cọc là bảo đảm cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng chứ không phải là trực tiếp hướng đến đích danh tài sản được giao dịch trong hợp đồng đó. Hay nói cách khác, trong mối quan hệ này, tài sản mà các bên mua bán được xác định là đối tượng của nghĩa vụ chứ không phải là đối tượng của giao dịch đặt cọc.

Tại Điều 276 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về đối tượng của nghĩa vụ dân sự chỉ quy định như sau: “1. Đối tượng của nghĩa vụ là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện. 2. Đối tượng của nghĩa vụ phải được xác định.” Như vậy, có thể thấy bên nhận cọc không nhất thiết phải là chủ sở hữu của tài sản mà các bên hướng tới giao dịch mua bán nhưng họ vẫn có quyền nhận đặt cọc.

Trên thực tế khi tiến hành công chứng các giao dịch đặt cọc, rất nhiều công chứng viên từ chối giao dịch đặt cọc với lý do người nhận đặt cọc không phải là chủ sở hữu tài sản; nếu công chứng giao dịch kiểu như vậy sẽ đem lại rủi ro rất lớn cho bên đặt cọc. Đây là một nhận định thiếu cơ sở pháp lý, bởi như đã phân tích ở trên, cho dù bên nhận đặt cọc có là chủ sở hữu tài sản là đối tượng của hợp đồng mua bán hay không, nếu không có biện pháp bảo đảm bổ sung cho nghĩa vụ hoàn trả tiền cọc và phạt cọc thì bên đặt cọc đều đối diện với rủi ro.

Ngoài ra, đa số các bên đặt cọc luôn có suy nghĩ rằng nếu người nhận đặt cọc là chủ sở hữu tài sản sẽ bảo đảm an toàn hơn, vì người có thể chạy chứ bất động sản nằm đó không thể chạy được. Nắm được tâm lý và suy nghĩ này, những kẻ lừa đảo thường tạo ra sự an toàn giả tạo để lừa tiền cọc bằng chiêu thức thuê bất động sản và làm giả giấy tờ sở hữu để tạo niềm tin cho bên đặt cọc. Thậm chí những kẻ lừa đảo còn tìm cách cho bên đặt cọc tin rằng chúng sở hữu rất nhiều bất động sản khác nữa, nên chẳng dại gì đi lừa đảo số tiền cọc nhỏ nhoi. Một thực tế nữa là khi tiến hành giao dịch đặt cọc, bên đặt cọc thường ít khi chú ý kiểm tra kỹ giấy tờ của bên nhận đặt cọc vì cho rằng đằng nào thì lúc mua bán chính thức cũng còn phải kiểm tra lần nữa, lại còn phải công chứng, do vậy nếu có kiểm tra giấy tờ khi đặt cọc thì cũng chỉ loáng thoáng, nên hầu như không thể phát hiện ra sự giả mạo.

4. Vi phạm hợp đồng đặt cọc có phải là vi phạm pháp luật?

Thực tế có một số trường hợp công chứng viên đánh đồng khái niệm “vi phạm hợp đồng đặt cọc”“vi phạm pháp luật” nên đã từ chối công chứng giao dịch cho bên vi phạm cọc và bên thứ ba. Ví dụ: ông A đặt cọc cho ông B để mua chiếc xe của ông B (hợp đồng có công chứng) mà sau đó ông B lại bán chiếc xe đó cho ông C thì giao dịch mua bán giữa ông B và ông C sẽ bị công chứng viên từ chối công chứng. Lý do nhiều công chứng viên đưa ra là ông B vi phạm cọc với ông A là phạm luật, do vậy nếu công chứng hợp đồng mua bán giữa ông B với ông C là vi phạm pháp luật

Tuy nhiên, quan điểm này chưa thật sự thuyết phục, bởi lẽ, hợp đồng cọc là một hợp đồng độc lập, đối tượng của nó là khoản tiền hoặc tài sản đem ra đặt cọc chứ không phải là chiếc xe mà hai bên dự kiến mua bán với nhau. Hơn thế nữa, vi phạm cọc và hậu quả của nó đã được thỏa thuận và quy định rõ. Trách nhiệm của bên vi phạm cọc sẽ chỉ tương đương và được gói gọn trong phạm vi giá trị số tiền đặt cọc cũng như biện pháp phạt cọc mà các bên đã thỏa thuận. Điều đó có thể được hiểu rằng việc vi phạm cọc không phải là không được phép xảy ra, mà nó hoàn toàn có thể xảy ra nếu các bên chấp nhận được mức trách nhiệm đã thỏa thuận trong hợp đồng cọc.

Do đó, hiểu và đồng hóa giữa vi phạm cọc và vi phạm pháp luật dường như không phù hợp logic và là một sự suy diễn thiếu căn cứ pháp lý; cách hiểu này đang làm hạn chế quyền chính đáng của chủ sở hữu khi định đoạt tài sản.

Có thể thấy việc không nắm rõ bản chất và cơ chế của giao dịch đặt cọc đang tạo ra những cách hiểu sai, những lầm tưởng, do vậy thường không nhận định đúng căn nguyên dẫn đến rủi ro từ giao dịch này, thậm chí tạo cơ hội cho các hành vi lừa đảo.

 

VI. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

1. Bên nhận đặt cọc và bên đặt cọc có bắt buộc phải có 2 vợ chồng?

Theo quy định tại Điều 117 BLDS 2015 thì việc đặt cọc là một giao dịch dân sự. Do đó giao dịch đặt cọc chỉ có hiệu lực khi đáp ứng các điều kiện về chủ thể ký kết, về nội dung và hình thức của hợp đồng như hợp đồng phải được lập thành văn bản, có đầy đủ nội dung và:

– Chủ thể trong giao dịch phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự

– Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của  pháp luật, không trái đạo đức xã hội

– Người giao dịch hoàn toàn tự nguyện.

Như vậy, có thể thấy việc đặt cọc nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện về nội dung, hình thức, chủ thể của hợp đồng thì có giá trị pháp lý, không cần nhất thiết phải có chữ ký của cả vợ hoặc chồng thì hợp đồng đó mới phát sinh hiệu lực. Tức, có một mình người chồng hoặc người vợ ký kết hợp đồng đặt cọc thì hợp đồng đã đảm bảo đủ yếu tố chủ thể có thẩm quyền ký kết rồi.

2. Có phải mọi tài sản hợp pháp, có giá trị đều có thể dùng để đặt cọc không?

BLDS 2015 không quy định cụ thể về khái niệm tài sản. Tuy nhiên, luật đã liệt kê ra các loại được gọi là tài sản như sau:

“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.

Điều 328 BLDS 2015 quy định về tài sản đặt cọc bao gồm: Một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác.

Như vậy, tài sản dùng để đặt cọc chỉ bao gồm tiền, kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác. Tuy nhiên, pháp luật về dân sự hiện nay chưa có quy định rõ về tài sản đặt cọc là “Vật có giá trị khác”. “Giá trị” mà BLDS đề cập liệu có phải là giá trị sử dụng (thể hiện qua công dụng mà tài sản đem lại cho người sử dụng) hay giá trị của tài sản dùng để đặt cọc? Điều này còn dẫn đến nhiều vướng mắc đối với tài sản đặt cọc.

Do đó, trước mắt có thể hiểu: không phải mọi tài sản đều có thể dùng để đặt cọc, khi đó sẽ có những tài sản hợp pháp nhưng vẫn không thể mang ra đặt cọc được. Vì vậy, để tránh rủi ro pháp lý, các bên nên sử dụng tài sản đặt cọc là những tài sản đảm bảo được yếu tố chuyển giao như tiền, kim khí, đá quý, không nên dùng những tài sản khó chuyển giao như bất động sản.

3. Phân biệt giữa đặt cọc và trả tiền trước.

Về hình thức, tiền đặt cọc và tiền trả trước đều là khoản tiền (hoặc tài sản giá trị khác) mà bên mua giao trước cho bên bán, nhằm đảm bảo hợp đồng sẽ được giao kết. Tuy nhiên, về bản chất, hai khái niệm này lại hoàn toàn khác biệt và không thể đánh đồng với nhau.

Cụ thể, đặt cọc là việc bên mua giao cho bên bán một khoản tiền (hoặc tài sản giá trị khác) trong thời hạn nhất định để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng. Trong khi đó, tiền trả trước là việc bên mua tiến hành trả trước một khoản tiền cho bên bán, nói cách khác là thực hiện trước một phần nghĩa vụ. Chính vì bản chất đã có sự khác biệt nên khi có vi phạm xảy ra, hậu quả pháp lý sẽ khác nhau tùy theo hình thức là tiền đặt cọc hay tiền trả trước.

***Đối với đặt cọc:

– Nếu hợp đồng được thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền

– Nếu bên đặt cọc từ chối việc thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc

– Nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

***Đối với trả tiền trước: Khi có bên vi phạm nghĩa vụ hoặc không tiến hành thực hiện hợp đồng thì khoản tiền trả trước về nguyên tắc sẽ được hoàn lại cho bên đã trả mà không kèm theo bất cứ khoản phạt nào.

Lưu ý: Trường hợp một bên trong hợp đồng giao cho bên kia một khoản tiền mà các bên không xác định rõ là tiền đặt cọc hay tiền trả trước thì số tiền này được coi là tiền trả trước (Điều 37 Nghị định 21/2021/NĐ-CP)

 

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

Tin tức liên quan