LY HÔN NHƯNG CÓ NỢ CHUNG, KHI NÀO KHÔNG PHẢI TRẢ NỢ THAY VỢ/CHỒNG?
Trong thực tiễn giải quyết ly hôn, không ít trường hợp vợ chồng đã chấm dứt quan hệ hôn nhân nhưng sau đó vẫn bị chủ nợ khởi kiện yêu cầu trả nợ. Điều này khiến nhiều người đặt câu hỏi: đã ly hôn rồi thì có còn phải chịu trách nhiệm đối với khoản nợ do vợ hoặc chồng vay hay không, và trong những trường hợp nào thì một bên không phải trả nợ thay cho bên còn lại.
1. Thế nào là nợ chung của vợ chồng?
Pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành không đưa ra một khái niệm định nghĩa trực tiếp thế nào là “nợ chung của vợ chồng”. Tuy nhiên, trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của vợ chồng, có thể hiểu nợ chung là những khoản nợ làm phát sinh trách nhiệm liên đới của cả vợ và chồng đối với bên thứ ba, tức là vợ chồng cùng có nghĩa vụ thực hiện việc trả nợ theo quy định của pháp luật.
Theo đó, nợ chung của vợ chồng bao gồm các khoản nợ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm; hoặc các khoản nợ do vợ hoặc chồng, hoặc cả hai vợ chồng xác lập nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Trong những trường hợp này, dù chỉ một bên trực tiếp đứng ra giao kết giao dịch hoặc đứng tên vay, thì nghĩa vụ trả nợ vẫn có thể được xác định là nghĩa vụ chung nếu khoản nợ đó phục vụ đời sống chung và lợi ích chung của gia đình.
Ví dụ, các khoản vay để mua nhà ở chung, sửa chữa nhà ở, chi phí học tập cho con, chi phí khám chữa bệnh cho thành viên trong gia đình hoặc các khoản vay phục vụ sinh hoạt chung của gia đình, dù hợp đồng vay chỉ đứng tên một người, vẫn có thể được xác định là nợ chung nếu chứng minh được mục đích sử dụng khoản tiền vay là vì lợi ích chung của vợ chồng và gia đình. Trong trường hợp này, cả vợ và chồng đều phải chịu trách nhiệm liên đới đối với chủ nợ, kể cả khi sau đó quan hệ hôn nhân đã chấm dứt.
2. Trách nhiệm đối với nợ chung của vợ chồng khi ly hôn
Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
“Điều 37. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.”
Như vậy, pháp luật xác định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng dựa trên mục đích phát sinh nghĩa vụ và lợi ích mà nghĩa vụ đó mang lại cho gia đình, chứ không chỉ căn cứ vào việc ai là người trực tiếp xác lập giao dịch. Theo đó, các khoản nợ phát sinh từ sự thỏa thuận chung của vợ chồng hoặc do một bên xác lập nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình như ăn, mặc, ở, học hành, khám chữa bệnh, duy trì sinh hoạt chung… đều được xác định là nợ chung, làm phát sinh trách nhiệm chung của cả vợ và chồng.
Khi ly hôn, đối với các khoản nợ chung này, vợ chồng vẫn phải tiếp tục chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên thứ ba, kể cả khi quan hệ hôn nhân đã chấm dứt.
3. Các trường hợp cụ thể loại trừ trách nhiệm trả nợ chung
Căn cứ vào Điều 45 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, những trường hợp sau đây, mà một bên vợ hoặc chồng không phải chịu trách nhiệm đối với nghĩa vụ tài sản do bên kia xác lập, cụ thể:
Thứ nhất là nợ phát sinh trước khi kết hôn (trừ khi hai người thỏa thuận nhập vào nợ chung)
Về nguyên tắc, hôn nhân không phải là một sự “hợp nhất nghĩa vụ” từ quá khứ. Do đó, các khoản nợ cá nhân được xác lập trước khi đăng ký kết hôn là nghĩa vụ riêng của người đó. Trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận rõ ràng bằng văn bản về việc nhập khoản nợ này vào nghĩa vụ chung của gia đình, thì bên còn lại hoàn toàn không có trách nhiệm trả nợ thay. Ví dụ: Người chồng vay tiền để đi du học từ 2 năm trước khi cưới vợ, thì sau khi kết hôn, nghĩa vụ trả nợ vẫn thuộc về riêng người chồng, người vợ không có nghĩa vụ phải dùng tiền lương của mình để trả khoản nợ này trừ khi chị ấy tự nguyện đồng ý gánh vác chung.
Thứ hai là nợ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng không vì nhu cầu của gia đình.
Nếu một bên sử dụng tài sản riêng của mình (như nhà đất được thừa kế riêng) để thực hiện các giao dịch cá nhân và phát sinh nợ, nhưng khoản nợ đó không phục vụ cho việc duy trì đời sống chung hay tạo lập tài sản chung, thì đó là nợ riêng. Ví dụ: Người vợ dùng căn nhà bố mẹ đẻ cho riêng mình để thế chấp vay tiền kinh doanh mỹ phẩm, nhưng toàn bộ lợi nhuận từ việc kinh doanh này được chị giữ riêng và không dùng để chi trả sinh hoạt phí cho gia đình; khi đó khoản nợ ngân hàng này là nợ riêng của người vợ.
Thứ ba, nợ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình
Đây là trường hợp phổ biến nhất trong các tranh chấp. “Nhu cầu thiết yếu” là căn cứ để xác định nợ chung, nếu một bên bí mật vay tiền để thực hiện các sở thích cá nhân, đầu tư, cờ bạc,…mà không được sự đồng ý của bên kia và không đem lại lợi ích cho gia đình, thì họ phải tự chịu trách nhiệm. Ví dụ điển hình: Người vợ tự ý đứng ra bảo lãnh vay vốn cho anh em ruột của mình mà không bàn bạc với chồng. Vì việc bảo lãnh này không nhằm mục đích phục vụ đời sống gia đình (ăn, ở, mặc, học hành), nên người chồng không phải liên đới chịu trách nhiệm khi người em ruột kia không trả được nợ.
Thứ ba là nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của một bên.
Những khoản nợ phát sinh từ tiền phạt vi phạm hành chính, bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác là nghĩa vụ riêng tuyệt đối. Ví dụ: Người chồng gây tai nạn giao thông và bị Tòa án tuyên phải bồi thường cho nạn nhân 500 triệu đồng. Khoản tiền bồi thường này phát sinh từ lỗi cá nhân của người chồng, do đó người vợ không có nghĩa vụ phải dùng tài sản riêng của mình hoặc phần tài sản của mình trong khối tài sản chung để trả nợ cho chồng.
Cuối cùng, trường hợp vợ chồng có thỏa thuận hợp pháp về việc một bên tự chịu trách nhiệm trả nợ, không nhập khoản nợ đó vào nghĩa vụ chung, thì mặc dù đó là khoản nợ chung, không phân biệt có vì nhu cầu của gia đình hay không thì thỏa thuận này được lập trên cơ sở tự nguyện và được pháp luật tôn trọng. Khi đó, nghĩa vụ trả nợ được xác định theo nội dung thỏa thuận, và bên không có nghĩa vụ theo thỏa thuận sẽ không phải chịu trách nhiệm liên đới đối với khoản nợ đó.
KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:
[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng – Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.
[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.
[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com
[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:
Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …