17

Th11

NHỮNG SAI LẦM THƯỜNG GẶP KHIẾN HỒ SƠ LY HÔN BỊ TRẢ LẠI THEO THỰC TIỄN TÒA ÁN 

Ly hôn là một thủ tục pháp lý tưởng như đơn giản nhưng lại phát sinh nhiều vướng mắc rất thực tế khi nộp hồ sơ tại Tòa án. Nhiều đương sự nghĩ rằng chỉ cần có đơn ly hôn và giấy đăng ký kết hôn là đủ để được Tòa thụ lý. Tuy nhiên, thực tiễn khi nộp hồ sơ ly hôn bị trả lại hoặc yêu cầu bổ sung tại Tòa là rất nhiều, chủ yếu do đương sự mắc phải những sai lầm phổ biến trong quá trình chuẩn bị hồ sơ ly hôn.

Dưới đây là một số sai lầm thường gặp khiến hồ sơ ly hôn bị trả lại theo thực tiễn tại Tòa án:

1. Chuẩn bị hồ sơ không đầy đủ 

Việc chuẩn bị hồ sơ không đầy đủ là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất khiến Tòa án trả lại đơn ly hôn. Căn cứ Điều 189 và Điều 190 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS), đơn khởi kiện phải có đầy đủ nội dung theo quy định và phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp.

Hồ sơ ly hôn theo quy định pháp luật và theo thực tiễn tại Tòa án bao gồm:

Đối với ly hôn, hồ sơ phổ biến theo thực tiễn Tòa án bao gồm:

– Đơn xin ly hôn (Theo mẫu quy định).

– Bản chính giấy đăng ký kết hôn.

– Bản sao chứng thực giấy khai sinh của con (nếu có).

– Bản sao chứng thực căn cước công dân/hộ chiếu của vợ chồng.

Giấy tờ chứng minh về tài sản, nợ chung nếu có tranh chấp (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sổ tiết kiệm, hợp đồng vay,…).

Tại Khoản 5 Điều 189 BLTTDS 2015 đã quy định rõ: “Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì họ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Người khởi kiện bổ sung hoặc giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ khác theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án.”

Do đó, tùy theo yêu cầu trong đơn ly hôn mà đương sự phải nộp kèm tài liệu chứng cứ. Thực tiễn cho thấy nhiều hồ sơ bị trả lại vì các lỗi rất cơ bản do thiếu hồ sơ như không nộp bản chính Giấy đăng ký kết hôn hoặc nộp bản sao không chứng thực, hoặc đương sự chỉ nộp đơn cho có mà không kèm chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình. Ví dụ: yêu cầu chia tài sản chung là nhà đất nhưng không nộp giấy tờ chứng minh quyền sở hữu; yêu cầu giành quyền nuôi con nhưng lại không cung cấp tài liệu chứng minh điều kiện nuôi dưỡng như thu nhập, chỗ ở, công việc, môi trường sinh hoạt của trẻ. Khi thiếu chứng cứ thì Tòa sẽ yêu cầu đương sự bổ sung hoặc trả lại đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo nếu không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của tòa.

2. Nộp sai tòa án có thẩm quyền giải quyết

Một sai lầm phổ biến khiến hồ sơ ly hôn bị trả lại là đương sự nộp đơn không đúng Tòa án có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Căn cứ Điều 39 BLTTDS 2015, thẩm quyền giải quyết vụ án ly hôn được xác định theo lãnh thổ, trong đó: đối với ly hôn đơn phương, người khởi kiện phải nộp đơn tại Tòa án nơi bị đơn cư trú hoặc làm việc; đối với ly hôn thuận tình, hồ sơ có thể nộp tại Tòa án nơi cư trú hoặc nơi làm việc của một trong hai bên.

Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều người vẫn nộp đơn tại nơi mình đang sinh sống, tạm trú hoặc nơi vợ chồng từng chung sống trước đây, mặc dù bị đơn đã chuyển hộ khẩu hoặc thay đổi nơi cư trú. Việc xác định sai thẩm quyền dẫn đến việc Tòa án trả lại đơn theo điểm đ khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 do “vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án”.

Bên cạnh đó, hiện nay nhà nước đã thực hiện sáp nhập địa giới hành chính trên cả nước kéo theo sự thay đổi thẩm quyền và trụ sở của các Tòa án nhân dân. Nếu đương sự không cập nhật thông tin mới, rất dễ nộp hồ sơ sai nơi có thẩm quyền. Do vậy, trước khi nộp đơn ly hôn, đương sự cần kiểm tra và tra cứu chính xác Tòa án có thẩm quyền theo nơi cư trú thực tế của bị đơn hoặc của một trong hai bên trong trường hợp thuận tình nhằm bảo đảm hồ sơ được tiếp nhận ngay từ lần nộp đầu tiên.

Xem chi tiết:

Danh sách địa điểm đặt trụ sở chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân khu vực sau khi thành lập theo Nghị quyết số 81/2025/UBTVQH15

3. Không phân biệt ly hôn thuận tình và ly hôn đơn phương

Một sai lầm phổ biến khác khiến hồ sơ ly hôn bị trả lại hoặc yêu cầu bổ sung là đương sự không phân biệt rõ giữa ly hôn thuận tình và ly hôn đơn phương. Thực tiễn cho thấy nhiều cặp vợ chồng đã thống nhất được việc ly hôn, nuôi con và phân chia tài sản nhưng lại nộp hồ sơ theo diện đơn phương, khiến Tòa án phải yêu cầu sửa đổi đơn hoặc nộp lại hồ sơ theo thủ tục ly hôn thuận tình. Ngược lại, không ít trường hợp hai bên vẫn còn tranh chấp về tài sản hoặc chưa thống nhất được quyền nuôi con nhưng lại nộp đơn thuận tình, dẫn đến việc Tòa án yêu cầu đương sự phải sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện thủ tục đơn phương.

4. Không chứng minh được tình trạng hôn nhân trầm trọng

Việc đương sự không cung cấp được chứng cứ chứng minh hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài cũng là một trong những lý do khiến tòa án không  có cơ sở giải quyết ly hôn.

Căn cứ tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

“Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.”

Do đó, đối với ly hôn đơn phương, người yêu cầu phải chứng minh hôn nhân đã “trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài”. Nếu chỉ ghi trong đơn các lý do chung chung như “không hợp nhau”, “thường xuyên cãi vã” hay “không còn tình cảm” nhưng hoàn toàn không nộp kèm bất kỳ chứng cứ nào như tin nhắn xúc phạm, bản tường trình về hành vi bạo lực, xác nhận của chính quyền địa phương, biên bản làm việc của công an, giấy ra viện nếu có thương tích, hoặc tài liệu chứng minh ly thân kéo dài. Do thiếu chứng cứ, Tòa án có thể đánh giá rằng lời trình bày chưa đủ căn cứ pháp lý để chứng minh tình trạng hôn nhân trầm trọng, từ đó yêu cầu bổ sung hoặc thậm chí trả lại đơn.

5. Không nộp hoặc nộp sai lệ phí Tòa án

Theo khoản 2 Điều 195 Bộ luật Dân sự 2015 về thụ lý đơn quy định

“2.Thẩm phán dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi vào giấy báo và giao cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí.

Thẩm phán thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí.”

Do đó, Nếu quá thời hạn nộp tạm ứng án phí, Tòa án có quyền trả lại đơn theo điểm d khoản 1 Điều 192 BLTTDS: “Hết thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 195 của Bộ luật này mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại khách quan, sự kiện bất khả kháng;”

6. Rơi vào một số trường hợp không được nộp đơn ly hôn

Một sai lầm nghiêm trọng khác nhưng vẫn thường gặp trong thực tiễn là đương sự nộp đơn ly hôn trong khi đang thuộc các trường hợp mà pháp luật quy định không có quyền yêu cầu ly hôn, dẫn đến việc Tòa án từ chối thụ lý hồ sơ ngay từ đầu, cụ thể:

Theo khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.” Trong đó, tại nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình hướng dẫn chi tiết như sau:

“1. “Đang có thai” quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình là khoảng thời gian vợ mang trong mình bào thai và được cơ sở y tế có thẩm quyền xác định cho đến thời điểm sinh con hoặc thời điểm đình chỉ thai nghén.

2.“Sinh con” quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình là thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Vợ đã sinh con nhưng không nuôi con trong khoảng thời gian từ khi sinh con đến khi con dưới 12 tháng tuổi;

b) Vợ đã sinh con nhưng con chết trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tuổi kể từ khi sinh con;

c) Vợ có thai từ 22 tuần tuổi trở lên mà phải đình chỉ thai nghén.

3. hồng không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tính từ ngày vợ sinh con hướng dẫn tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều này hoặc ngày đình chỉ thai nghén hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều này.

4. Trường hợp vợ đang có thai, sinh con thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai.

5. Trường hợp vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt con đẻ, con nuôi.”

Như vậy, người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn khi người vợ đang mang thai, đang sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Quy định này nhằm bảo vệ sức khỏe, tâm lý của người mẹ và bảo đảm quyền lợi tốt nhất cho trẻ sơ sinh. Vì vậy, nếu người chồng nộp đơn ly hôn trong thời gian này, Tòa án sẽ trả lại đơn hoặc không thụ lý dù hồ sơ đầy đủ về mặt giấy tờ.

7. Tâm lý nóng vội, thiếu kiên nhẫn, không tuân thủ đầy đủ quy trình tố tụng

Một sai lầm phổ biến trong quá trình giải quyết ly hôn là tâm lý nóng vội, thiếu kiên nhẫn của đương sự, dẫn đến việc không tuân thủ đúng quy trình tố tụng hoặc không hợp tác đầy đủ với Tòa án. Thực tế cho thấy các vụ việc ly hôn có thể được giải quyết trong thời gian ngắn từ một đến vài tháng nếu hồ sơ đầy đủ và các bên không có tranh chấp phức tạp; ngược lại, những vụ án có tranh chấp về tài sản lớn, quyền nuôi con hoặc có yếu tố nước ngoài có thể kéo dài hàng năm. Tuy nhiên, nhiều người vì mong muốn “ly hôn càng sớm càng tốt” nên khi thấy hồ sơ xử lý lâu hơn kỳ vọng thì bỏ ngang, không đến làm việc theo giấy triệu tập, không bổ sung chứng cứ theo yêu cầu của Tòa, hoặc thậm chí thay đổi yêu cầu nhiều lần. Việc này này khiến Tòa án phải đình chỉ giải quyết vụ án theo Điều 217 BLTTDS 2015, và nếu muốn tiếp tục, đương sự phải khởi kiện lại từ đầu, gây mất thời gian, chi phí và tạo bất lợi trong việc chứng minh quyền lợi của mình.

8. Không tìm đến sự hỗ trợ pháp lý sớm

Một sai lầm phổ biến khác là đương sự không chủ động tìm đến sự hỗ trợ pháp lý ngay từ đầu mà chỉ nhờ luật sư khi hồ sơ đã bị trả lại nhiều lần hoặc khi vụ việc trở nên phức tạp do có tranh chấp về tài sản, con chung hoặc yếu tố nước ngoài. Việc thiếu tư vấn sớm khiến đương sự dễ xác định sai thẩm quyền Tòa án, chuẩn bị không đầy đủ giấy tờ, hoặc không thu thập kịp thời chứng cứ dẫn đến bỏ sót chứng cứ quan trọng, hoặc trình bày yêu cầu thiếu rõ ràng, dẫn đến hồ sơ liên tục bị yêu cầu sửa đổi, bổ sung hoặc bị trả lại. Nếu được luật sư đồng hành từ giai đoạn đầu, quy trình ly hôn sẽ thuận lợi hơn rất nhiều vì luật sư sẽ hướng dẫn đầy đủ các bước trong quy trình tố tụng, hỗ trợ nộp đúng, đủ hồ sơ, định hướng cách trình bày yêu cầu, đồng thời tư vấn các phương án pháp lý phù hợp như khiếu nại khi Tòa án vi phạm thời hạn hoặc thực hiện không đúng thủ tục tố tụng. Nhờ đó, đương sự tránh được các sai sót không cần thiết và bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong suốt quá trình giải quyết ly hôn.

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

 

Tin tức liên quan