17

Th5

Quy định về chuẩn bị xét xử vụ án dân sự sơ thẩm

Khi các tranh chấp dân sự xảy ra, các chủ thể có quyền tự thỏa thuận với nhau để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết các tranh chấp, có nhiều trường hợp các chủ thể không thể tự thỏa thuận với nhau mà yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kể từ khi một trong các bên yêu cầu giải quyết tranh chấp bởi Tòa án thì quá trình tố tụng dân sự chính thức bắt đầu. Trong đó, giai đoạn chuẩn bị xét sử sơ thẩm vụ án dân sự có vai trò rất quan trọng, tuy không đưa ra phán quyết nhưng giai đoạn này sẽ đảm bảo cho việc xét xử và các phán quyết của Tòa được đưa ra một cách khách quan và đúng pháp luật, hoặc các tranh chấp có thể được giải quyết trong giai đoạn này mà không cần phải tiến hành bước xét xử tại Tòa. Sau đây là các quy định pháp luật liên quan đến giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự sơ thẩm.

 

I. CƠ SỞ PHÁP LÝ

– Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

 

II. ĐỊNH NGHĨA

1. Vụ án dân sự là gì?

Vụ án dân sự là các tranh chấp xảy ra giữa các đương sự mà theo quy định của BLTTDS 2015 thì cá nhân, cơ quan; tổ chức tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp; khởi kiện vụ án tại tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

2. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm là gì?

Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng dân sự. Đây là giai đoạn tố tụng dân sự quan trọng. Trong đó, Toà án xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp; từ đó xác định được đầy đủ nguyên đơn, bị đơn, những người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Đồng thời, giai đoạn này còn giúp Hội đồng xét xử có quan điểm đúng đắn để giải quyết vụ án nhanh chóng, dứt điểm và đảm bảo đúng pháp luật; hạn chế thấp nhất những sai lầm, thiếu sót trong xét xử và tình trạng án sơ thẩm bị hủy, sửa do vi phạm.

Các công việc chuẩn bị xét xử là quá trình quan trọng để giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, khách quan, đúng pháp luật.

 

III. CÁC CÔNG VIỆC TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ

Thứ nhất, Phân công thẩm phán giải quyết vụ án

Thẩm phán có vai trò đặc biệt quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Vì vậy, sau khi ra thông báo thụ lý vụ án, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án.

Đối với vụ án phức tạp, việc giải quyết có thể phải kéo dài thì Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán dự khuyết để bảo đảm xét xử đúng thời hạn theo quy định của BLTTDS 2015. Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu Thẩm phán được phân công không thể tiếp tục tiến hành được nhiệm vụ thì Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán khác tiếp tục nhiệm vụ

(Điều 197 BLTTDS 2015)

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán sau khi được phân công sẽ thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Lập hồ sơ vụ án;

b) Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác;

c) Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng;

d) Làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án;

đ) Xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này;

e) Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

g) Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn;

h) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của BLTTDS 2015.

(Khoản 2 Điều 203 BLTTDS 2015)

Thứ hai, Yêu cầu đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán đã được phân công giải quyết vụ án sẽ thông báo cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp cho tòa án văn bản; tài liệu liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn theo quy định tại Điều 199 BLTTDS 2015, cụ thể:

“1. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và tài liệu, chứng cứ kèm theo, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập (nếu có).

Trường hợp cần gia hạn thì bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có đơn đề nghị gia hạn gửi cho Tòa án nêu rõ lý do; nếu việc đề nghị gia hạn là có căn cứ thì Tòa án phải gia hạn nhưng không quá 15 ngày….”

Cùng với việc phải nộp cho tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với người khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu kèm theo, Điều 200, Điều 201 BLTTDS 2015 còn quy định bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn; người có quyền, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Đây là trường hợp bị đơn kiện lại đối với nguyên đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Vì vậy, tòa án có thể xem xét giải quyết trong cùng một vụ án để sớm kết thúc việc giải quyết tranh chấp.

Thứ ba, Lập hồ sơ vụ án dân sự

Hồ sơ vụ án dân sự gồm đơn và toàn bộ tài liệu, chứng cứ của đương sự, người tham gia tố tụng khác; tài liệu chứng cứ do tòa án thu thập; văn bản tố tụng của tòa án, viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.

Để lập hồ sơ vụ án, Tòa án sẽ căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện để xác định các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án và yêu cầu các đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện cung cấp. Sau đó, tòa án sẽ đưa vào hồ sơ vụ án. Thủ tục giao nhận các chứng cứ tài liệu được thực hiện theo điều 96 BLTTDS 2015.

Trong trường hợp tòa án áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ thì việc thu thập chứng cứ của tòa án được thực hiện theo quy định điều 97 đến điều 106 BLTTDS.

Thứ tư, tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải

1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án,  Tòa án sẽ mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự.

2. Trước khi tiến hành phiên họp, Thẩm phán phải thông báo cho đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của phiên họp.

3. Đối với phiên họp hòa giải, Tòa án sẽ không tiến hành hòa giải đối với những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 BLTTDS 2015 hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn. cụ thể:

– Những vụ án dân sự không được hòa giải bao gồm:

+ Yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.

+ Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội.

– Những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được:

+ Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.

+ Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng.

+ Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.

+ Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải.

4. Trường hợp vụ án dân sự không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải theo quy định nêu trên thì Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành hòa giải.

Thủ tục tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thực tiện theo quy định tại các điều 208, Điều 209, Điều 210, Điều 211 BLTTDS 2015.

Thứ năm, các quyết định của thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử

Căn cứ theo Khoản 3 Điều 203 BLTTDS 2015. Tùy từng trường hợp trong giai đoạn này mà Thẩm phán sẽ ra một trong các quyết định sau đây:

a) Công nhận sự thoả thuận của các đương sự;

Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.

Lưu ý:

– Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

– Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

– Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thoả thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.

(Điều 212, Điều 213 BLTTDS 2015)

b) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;

– Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được hiểu là việc Tòa án tạm ngừng các hoạt động tố tụng trong một khoảng thời gian nào đó và lý do của việc tạm đình chỉ không còn thì Tòa án tiếp tục giải quyết.

– Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi có một trong các căn cứ theo quy định tại Điều 214 BLTTDS 2015. Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sẽ được gửi cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp  Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định.

– Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án vẫn phải có trách nhiệm về việc giải quyết vụ án.

– Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

– Kể từ ngày lý do tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại Điều 214 của BLTTDS 2015 không còn thì Tòa án phải ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự và gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc. Theo đó, Tòa án sẽ tiếp tục giải quyết vụ án kể từ khi ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự.

(Điều 214, Điều 215, Điều 216 BLTTDS 2015)

c) Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;

Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Tòa án ban hành quyết định để chấm dứt việc giải quyết vụ án dân sự, nói cách khác là ngừng hẳn mọi hoạt động tố tụng của vụ án dân sự đó khi có những căn cứ do pháp luật quy định. Căn cứ để đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được quy định cụ thể tại Điều 217 BLTTDS 2015.

Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là “đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 của BLTTDS 2015 và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật”.

Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

(Điều 217, Điều 218 BLTTDS 2015)

d) Đưa vụ án ra xét xử.

Sau khi lập hồ sơ vụ án, hòa giải vụ án không đạt được kết quả (đối với vụ án phải hòa giải) và không có căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án thì Tòa án phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quyết định này phải có các nội dung quy định tại khoản 1 điều 220 BLTTDS 2015. Đồng thời, phải được gửi cho các đương sự, viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 3 ngày; kể từ ngày ra quyết định.

Căn cứ vào quyết định đưa vụ án ra xét xử, tòa án làm giấy triệu tập những người tham gia tố tụng đến tham gia phiên tòa. Trường hợp nhận được yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng; hoặc người tham gia tố tụng trước khi mở phiên tòa thì tùy trường hợp chánh án tòa án; hoặc viện trưởng viện kiểm sát sẽ xem xét quyết định.

Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng (khoản 4 Điều 203 BLTTDS 2015)

 

 III. THỜI HẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ

Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án, trừ các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài, được quy định như sau:

a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của BLTTDS 2015 thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;

b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của BLTTDS 2015 thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.

Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a nêu trên và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b nêu trên.

Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

 (Điều 203 BLTTDS 2015)

 

IV. MỘT SỐ BẤT CẬP THỰC TIỂN TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ

1. Về thời hạn và gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử

Thứ nhất, BLTTDS 2015 quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử chung cho các cấp xét xử; đồng thời, quy định thời hạn chuẩn bị xét xử là 02 tháng đối với án kinh doanh, thương mại ngắn hơn các loại án còn lại. Trường hợp, có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì chỉ được gia hạn tối đa không quá 1 tháng. Điều này không phù hợp với yêu cầu thực tế. Bởi lẽ, đối với vụ án kinh doanh, thương mại thường liên quan đến hoạt động của nhiều loại hình doanh nghiệp, hoặc phải thu thập chứng cứ ở nhiều nơi, nhiều nguồn khác nhau; Quá trình thu thập chứng cứ, tống đạt văn bản tố tụng có thể kéo dài. Vì vậy, thời hạn này tương đối ít để có thể chuẩn bị tốt cho giai đoạn chuẩn bị xét xử này.

Thứ hai, khoản 1 Điều 203 BLTTDS 2015 quy định chưa rõ ràng về gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với các vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan. Theo đó, hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án có tính chất phức tạp, Thẩm phán thường mặc định thời hạn giải quyết vụ án bao gồm cả thời hạn gia hạn mà không có quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, không thông báo cho đương sự (đương sự không biết vụ án đã được gia hạn nên thường gửi đơn khiếu nại về việc chậm giải quyết vụ án…).

Ngoài ra, hiện nay cũng chưa có văn bản chính thức được áp dụng để hướng dẫn rõ về các thuật ngữ “sự kiện bất khả kháng”, “trở ngại khách quan”, “lý do chính đáng”. Các Tòa án chỉ quyết định dựa trên tinh thần của các văn bản đã hết hiệu luật trước đó mà chưa có hướng dẫn mới hoặc văn bản thay thế.

2. Về tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử

Khoản 1 Điều 203 BLTTDS năm 2015 chỉ quy định tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án dân sự đã tạm đình chỉ mà Tòa án tiếp tục giải quyết. Theo đó, thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án vẫn tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử trong một số trường hợp đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng hoặc khi nhập, tách vụ án.

a) Tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử đối với trường hợp đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng

Một số Thẩm phán cho rằng sau khi đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng thì Tòa án phải tiến hành lại thủ tục kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp, công khai chứng cứ và hòa giải, phải tiến hành thêm các bước thu thập chứng cứ nên phải tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử kể từ ngày ra thông báo đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng.

Tuy nhiên, hiện nay BLTTDS 2015 vẫn chưa có quy định thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án thông báo đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng. Mặt khác, theo điểm b khoản 2 Điều 204 BLTTDS có quy định “xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác” là thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Do đó việc Thẩm phán đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng và tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử là chưa phù hợp quy định của pháp luật. Ngoài ra, trong thực tế, đã có trường hợp Thẩm phán lạm dụng việc đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng để quay lại thời hạn chuẩn bị xét xử. Thậm chí, gần hết thời hạn chuẩn bị xét xử lại xuất hiện thêm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Thẩm phán lại dựa vào đó để gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử làm vụ án kéo dài thời gian giải quyết, gây bức xúc cho đương sự.

b) Tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử đối với trường hợp nhập hặc tách vụ án

Theo Điều 42 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Tòa án đó đã thụ lý riêng biệt thành một vụ án để giải quyết nếu việc nhập và việc giải quyết trong cùng một vụ án bảo đảm đúng pháp luật; Tòa án tách một vụ án có các yêu cầu khác nhau thành hai hoặc nhiều vụ án nếu việc tách và việc giải quyết các vụ án được tách bảo đảm đúng pháp luật. Đối với vấn đề tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử trong trường hợp nhập, tách vụ án thì vẫn chưa có quy định hướng dẫn cụ thể.

Thực tiễn cho thấy, về nguyên tắc, khi hai hay nhiều vụ án được nhập có thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại khác nhau thì thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án sau khi nhập được xác định là thời hạn của một trong các vụ án được nhập có thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại dài nhất. Do những vụ án trước khi nhập đều đã trải qua một thời gian chuẩn bị xét xử nhất định, đã được Thẩm phán tiến hành các thủ tục tố tụng, các biện pháp thu thập chứng cứ. Vì vậy Thẩm phán đã phần nào nắm được nội dung và hướng giải quyết vụ án. Hơn nữa, mục đích của việc nhập vụ án là nhằm đảm bảo hiệu quả tố tụng, giúp vụ án được giải quyết nhanh chóng, thuận lợi và toàn diện, rút ngắn thời gian cho đương sự. Do đó, nếu xác định lại thời hạn chuẩn bị xét xử từ ngày ra quyết định nhập vụ án thì những vụ án đó lại bị kéo dài thêm, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Nên chỉ cần xác định thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án còn dài nhất và lấy đó là thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại của vụ án sau khi nhập.

Đối với trường hợp tách vụ án: Ví dụ vụ án B sau khi được tách ra từ vụ án A thì Tòa án phải vào sổ thụ lý mới, ngày thụ lý vụ án B là ngày Tòa án ra quyết định tách vụ án. Do đó thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án B được tính từ ngày thụ lý, hay nói cách khác thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án B được tính từ ngày Tòa án ra quyết định tách vụ án. Đối với vụ án A, sau khi tách bớt một hay nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp, những thủ tục tố tụng hoặc những chứng cứ đã thu thập đúng quy định của pháp luật vẫn còn nguyên giá trị chứng minh, càng không có căn cứ để tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử. Vì lẽ đó, thời hạn chuẩn bị xét xử của vụ án A trước khi tách cũng chính là thời hạn chuẩn bị xét xử của nó sau khi đã tách vụ án.

Tuy nhiên, hướng giải quyết trên vẫn chưa được ghi nhận chính thức trong bất kỳ văn bản pháp lý nào có hiệu lực áp dụng. Vì vậy, để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, thì rất cần có hướng dẫn của ngành cấp trên về những vấn đề này. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý cho Viện kiểm sát kiểm sát tốt việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong việc giải quyết vụ án dân sự, hành chính và những việc khác theo quy định của pháp luật.

3. Về việc ban hành quyết đình chỉ, tạm đình chỉ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử

a) Đối với quyết định tạm đình chỉ vụ án dân sự

Hiện nay, số lượng án dân sự, hôn  nhân gia đình ngày càng tăng, tính chất vụ việc ngày càng phức tạp, nhưng BLTTDS năm 2015 quy định thời hạn chuẩn bị xét xử tối đa đối với án dân sự, hôn nhân gia đình là 06 tháng tính từ ngày thụ lý (kể cả thời gian gia hạn), nên có một số vụ án Thẩm phán không thể giải quyết đúng thời hạn. Do đó, một số Thẩm phán áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 214 BLTTDS năm 2015 (đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án) để tạm đình chỉ vụ án dân sự. Khi có căn cứ phục hồi, Tòa án ra thông báo tiếp tục giải quyết vụ án thì tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử theo Điều 203 BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, pháp luật không quy định thời hạn tối đa đối với quyết định tạm đình chỉ nên vụ án bị kéo dài, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự.

Bên cạnh đó, hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn việc xử lý cơ quan, tổ chức không cung cấp hoặc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án không đúng thời hạn theo quy định của BLTTDS năm 2015. Dẫn đến tình trạng có một số trường hợp các cơ quan, tổ chức, cá nhân thiếu trách nhiệm, chậm trễ trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của đương sự, Tòa án hay Viện kiểm sát mà pháp luật vẫn không có chế tài xử lý triệt để vấn đề này, từ đó có những vụ kiện kéo dài nhiều năm, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp, gây bức xúc cho đương sự.

b) Đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

Theo quy định, Tòa án sẽ ra quyết định tạm đình chỉ nếu xảy ra các căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 214 BLTTDS 2015. Trong đó, tại điểm h quy định “Theo yêu cầu của đương sự khi đương sự có lý do chính đáng”. Theo đó, một số Tòa án sẽ dựa theo căn cứ này để ra quyết định tạm đình chỉ đối với những trường hợp  đương sự có đơn đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì một trong những lý do như: Đương sự đi chữa bệnh; đi công tác nước ngoài; đang gặp sự cố bất khả kháng không thể có mặt theo triệu tập của Tòa án mà không thể ủy quyền cho người khác; đương sự cần có thời gian thu thập thêm chứng cứ; chưa có tiền để nộp chi phí định giá, chi phí tố tụng khác,…Tuy nhiên, cần phải xem xét lại Liệu đây có phải là lý do chính đáng để đương sự yêu cầu tạm đình chỉ giải quyết vụ án không? và cần phải có văn bản hướng dẫn rõ những trường hợp như thế này, để việc giải quyết các vụ án dân sự có sự thống nhất.

 

Nguồn: Tạp chí Tòa án

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

Tin tức liên quan