02

Th8

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG  KHI VĂN BẢN CÔNG CHỨNG BỊ TÒA TUYÊN VÔ HIỆU

Công chứng được hiểu là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản, tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Vậy trên thực tế, nếu văn bản đã được công chứng bị vô hiệu do công chứng viên công chứng sai, công chứng không đúng sự thật làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng, các tổ chức, cá nhân khác có liên quan thì tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên sẽ có trách nhiệm gì? Việc bồi thường do văn bản công chứng vô hiệu được quy định như thế nào?

1. Giá trị pháp lý của văn bản công chứng

Căn cứ theo Điều 5 của Luật Công chứng 2014, Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng. Theo đó:

– Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thoả thuận khác.

– Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Toà án tuyên bố là vô hiệu.

– Bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch.

2. Những trường hợp văn bản công chứng bị vô hiệu

Căn cứ theo khoản 1 Điều 2 của Luật Công chứng 2014 thì Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản, tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt.

Theo quy định tại Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015 ở Việt Nam về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự như sau:

– Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

– Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

– Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

– Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.

Như vậy, một văn bản công chứng bị tuyên vô hiệu khi không đáp ứng được điều kiện của một giao dịch dân sự có hiệu lực nêu trên. Cụ thể như:

– Người yêu cầu công chứng không tự nguyện yêu cầu công chứng,

– Người làm chứng không đủ điều kiện theo quy định của Luật Công chứng.

– Cá nhân, tổ chức không đủ điều kiện hành nghề công chứng nhưng đã công chứng tại văn bản công chứng, giả mạo người yêu cầu công chứng,

– Người yêu cầu công chứng cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; sử dụng giấy tờ, văn bản giả mạo hoặc bị tẩy xóa, sửa chữa trái pháp luật để yêu cầu công chứng,

– Người làm chứng, người phiên dịch có hành vi gian dối, không trung thực.

– Như vậy nếu có hành vi vi phạm pháp luật trong văn bản công chứng thì Tòa án sẽ có quyền tuyên bố văn bản công chứng này vô hiệu theo quy định của pháp luật công chứng.

3. Trách nhiệm bồi thường do văn bản công chứng vô hiệu

Điều 38 Luật Công chứng 2014 quy định về trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động công chứng như sau:

“1. Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng.

2. Công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.”

Như vậy, pháp luật đã quy định rõ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp văn bản công chứng bị vô hiệu do lỗi của công chứng viên. Cụ thể, tổ chức hành nghề công chứng sẽ chịu trách nhiệm bồi thường cho người đã yêu cầu công chứng và Công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây thiệt hại sẽ phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật.

Việc xác định mức bồi thường theo quy định sẽ căn cứ vào mức độ lỗi của công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch gây ra trong quá trình công chứng và các thiệt hại thực tế phát sinh do lỗi của công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch gây ra trong quá trình công chứng. Nếu xác định có yếu tố lỗi nhưng không có thiệt hại xảy ra thì tổ chức hành nghề công chứng sẽ không phải bồi thường.

Do đó, khi có căn cứ cho rằng văn bản công chứng bị vô hiệu do lỗi của công chứng viên thì cá nhân, tổ chức có liên quan có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố văn bản công chứng đó vô hiệu và yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng bồi thường nếu có thiệt hại phát sinh trên thực tế.

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và văn bản pháp luật có liên quan không có quy định cụ thể về việc trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng phải được giải quyết ngay trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu hay tách ra bằng một vụ án dân sự khác. Vì vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng phải được giải quyết ngay trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu hay tách ra bằng một vụ án dân sự khác thì phải tùy vào từng trường hợp cụ thể; phụ thuộc vào nội dung, tính chất, kết quả của từng vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu; phụ thuộc vào tài liệu, chứng cứ chứng minh cho thiệt hại. Nếu trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, người yêu cầu chứng minh được đầy đủ, rõ ràng, chính xác, có định lượng cụ thể các thiệt hại thực tế xảy ra từ hậu quả của việc văn bản công chứng vô hiệu do lỗi của tổ chức hành nghề công chứng thì Tòa án giải quyết ngay trong vụ việc đó; còn nếu họ không chứng minh được thì Tòa án tách yêu cầu này của họ thành một vụ án khác.

4. Thời hiệu yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:

“1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại các Điều 125 (Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện), 126 (Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn), 127 (Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép), 128 (Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình) và 129 (Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức) của Bộ luật này là 02 năm, kể từ ngày:

a) Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;

b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;

c) Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;

d) Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;

đ) Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức.

2. Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.

3. Đối với giao dịch dân sự quy định tại Điều 123 (giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội) và Điều 124 (Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo) của Bộ luật này thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế”.

Điều 4 Luật Công chứng năm 2014 quy định nguyên tắc hành nghề công chứng: “1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. 2. Khách quan, trung thực. 3. Tuân theo quy tắc đạo đức hành nghề công chứng. 4. Chịu trách nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng”.

Điều 76 Luật Công chứng năm 2014 quy định giải quyết tranh chấp: “Trong trường hợp giữa người yêu cầu công chứng và công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng có tranh chấp liên quan đến hoạt động hành nghề công chứng thì các bên có quyền khởi kiện vụ việc ra Tòa án để giải quyết tranh chấp đó”.

Như vậy, khi hợp đồng, giao dịch, nếu không thuộc trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội và giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là 02 năm theo quy định tại Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2015. Nếu hết thời hạn này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực. Trường hợp hợp đồng, giao dịch được công chứng có dấu hiệu vô hiệu được thực thi trên thực tế dẫn đến phát sinh hậu quả, tranh chấp thì giải quyết theo Điều 76 Luật Công chứng năm 2014, và về nguyên tắc, thì công chứng viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng.

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

 

Tin tức liên quan