29

Th5

VỢ/CHỒNG CÓ TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI ĐỐI VỚI CÁC KHOẢN NỢ RIÊNG MỘT BÊN KHÔNG?

Theo Luật Hôn nhân và gia đình, tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân được xem là tài sản chung trừ một số trường hợp như: Được tặng cho riêng, thừa kế riêng, thỏa thuận riêng. Vậy đối với khoản nợ do vợ hoặc chồng xác lập trong thời kỳ hôn nhân có được xem là nợ chung không? và người còn lại có nghĩa vụ liên đới đối với khoản nợ này không? Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.

1. Xác định nợ chung, nợ riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Hiện nay, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 không quy định khái niệm nợ riêng hay nợ chung trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, luật này có quy định rõ nghĩa vụ chung và nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng, đây được xem là cơ sở để xác định các khoản nợ riêng hay nợ chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng, cụ thể:

(i) Về nghĩa vụ chung

Căn cứ theo Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:

– Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;

– Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Trong đó, Trong đó, nhu cầu thiết yếu theo khoản 20 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình

– Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;

– Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;

– Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;

– Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.

(ii) Về nghĩa vụ riêng

Theo quy định tại Điều 45 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Vợ, chồng có các nghĩa vụ riêng về tài sản sau đây:

– Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn;

– Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 44 hoặc quy định tại khoản 4 Điều 37 của Luật này;

– Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình.

– Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng.

Như vậy, nợ riêng là những khoản nợ phát sinh từ việc vay mượn hay nghĩa vụ vật chất đối với người thứ ba, mà khoản nợ này có trước thời kỳ hôn nhân hoặc những khoản phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ một số trường hợp luật định hoặc phát sinh từ những giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không sử dụng vào mục đích phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình trong thời kỳ hôn nhân hoặc phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của một bên.

2. Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với khoản nợ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân

Theo Luật Hôn nhân và gia đình, đối với nợ riêng của vợ hoặc chồng thì đây là nghĩa vụ riêng rẽ của vợ hoặc chồng mà người đó có nghĩa vụ thực hiện, không liên đới, liên quan đến người còn lại. Vì vậy, các khoản nợ xuất phát từ vợ hoặc chồng trước khi kết hôn hay trong thời kỳ hôn nhân; phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng  phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình; phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng thì sẽ do người có khoản nợ riêng này đứng ra chi trả.

Theo Điều 27 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, vợ chồng chỉ có trách nhiệm liên đới đối với khoản nợ do một bên tự xác lập trong các trường hợp sau:

(1) Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

(2) Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Như vậy, tùy mục đích vay nợ trong thời kỳ hôn nhân mà xác định đó có phải nợ chung hay không. Nếu là nợ riêng thì sau khi ly hôn, nợ của người nào thì người đó có trách nhiệm phải trả. Còn về khoản nợ chung, theo quy định tại Điều 60 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, các nghĩa vụ trả nợ sau khi ly hôn của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực. Do đó, sau khi ly hôn vợ chồng vẫn có nghĩa vụ phải cùng nhau trả nợ chung, trừ các trường hợp sau đây:

– Do vợ chồng tự thỏa thuận hoặc thỏa thuận với người thứ ba;

– Do Tòa án quyết định nếu hai bên không tự thỏa thuận được với nhau. Lúc này, khi yêu cầu giải quyết ly hôn, một trong hai người có thể yêu cầu Tòa án phân chia cụ thể nghĩa vụ trả nợ trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

Lưu ý: Khi phát sinh tranh chấp liên quan đến xác định nợ riêng, nợi chung của vợ, chồng. Để xác định là khoản nợ riêng và loại trừ trách nhiệm liên đới đối với khoản nợ riêng do một bên vợ hoặc chồng xác lập, thì người còn lại phải chứng minh được đây các khoản nợ riêng thông qua các tài liệu chứng cứ như:

– Các tài liệu, chứng cứ để chứng minh việc xác lập giao dịch này sử dụng cho mục đích cá nhân, không thể hiện ý chí thống nhất của cả vợ và chồng, như: Hợp đồng vay mượn chỉ có một chữ ký của vợ hoặc chồng; Bản án/Quyết định của Toà án hoặc văn bản thoả thuận của các bên về việc thực hiện nghĩa vụ đối với người thứ ba do hành vi vi phạm pháp luật của mình gây ra;…

– Các chứng cứ chứng minh việc sử dụng khoản nợ không đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, như: Sử dụng khoản vay mượn dùng để đánh bài, cá độ, hoặc thực hiện nghĩa vụ chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng,…

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

Tin tức liên quan