06

Th12

VỢ/CHỒNG TỰ Ý BÁN TÀI SẢN CHUNG, GIAO DỊCH ĐÓ CÓ BỊ VÔ HIỆU?

Trong đời sống hôn nhân, tài sản chung của vợ chồng được hình thành trên cơ sở bình đẳng, cùng tạo lập và cùng định đoạt. Tuy nhiên, trên thực tế không ít trường hợp một bên vợ hoặc chồng tự ý bán tài sản chung mà không có sự đồng ý của người còn lại, làm phát sinh tranh chấp. Khi đó, vấn đề được đặt ra là giao dịch này có bị vô hiệu hay không và quyền lợi của các bên được bảo vệ như thế nào theo quy định pháp luật.

1. Thế nào là tài sản chung của vợ chồng?

Căn cứ khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, tài sản chung của vợ chồng bao gồm các nhóm tài sản sau:

Thứ nhất, tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, bao gồm: thu nhập từ lao động; thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp vợ chồng đã chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.

Trong đó, theo Điều 9 và Điều 10 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP: – Thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân bao gồm: tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp; tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên; gia súc, gia cầm bị thất lạc; vật nuôi dưới nước và các khoản thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.

– Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng là sản vật tự nhiên mà vợ, chồng thu được từ tài sản riêng của mình.

– Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng là khoản lợi mà vợ, chồng thu được từ việc khai thác, sử dụng tài sản riêng của mình.

Thứ hai, quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung, cũng như tài sản khác mà vợ chồng có thỏa thuận xác lập là tài sản chung.

Thứ ba, quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất mà vợ hoặc chồng có được sau khi kết hôn được mặc nhiên xác định là tài sản chung, trừ trường hợp được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Trường hợp không có căn cứ để chứng minh quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung của vợ chồng.

2.  Quyền định đoạt của vợ chồng đối với tài sản chung

Theo khoản 1 Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung, không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.

Đồng thời, khoản 1 và khoản 2 Điều 213 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định:

 “1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.

Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung”.

Bên cạnh đó, Điều 35 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận.

2. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây:

a) Bất động sản;

b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;

c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.”

Như vậy, theo các quy định nêu trên, đối với tài sản chung của vợ chồng thì vợ chồng có quyền định đoạt ngang nhau và việc định đoạt phải dựa trên sự thỏa thuận của cả hai bên. Đặc biệt, đối với tài sản chung là bất động sản, pháp luật bắt buộc phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của cả hai vợ chồng, được thể hiện thông qua chữ ký của cả hai bên trong hợp đồng hoặc thông qua văn bản ủy quyền hợp lệ thì giao dịch mới có giá trị pháp lý.

3. Vợ/chồng tự ý bán tài sản chung, giao dịch đó có bị vô hiệu?

Theo Điều 430 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định:

“Điều 430. Hợp đồng mua bán tài sản

Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán.”

Như vậy, điều kiện tiên quyết để hợp đồng mua bán có hiệu lực là bên bán phải là chủ thể có đầy đủ quyền định đoạt hợp pháp đối với tài sản.

Tại Điều 13 của Nghị định 126/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định về việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung của vợ chồng như sau:

“1. Việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung phải dựa trên sự thỏa thuận của vợ chồng. Trong trường hợp một trong hai vợ chồng xác lập hoặc thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, thì được coi là có sự đồng ý của bên kia, trừ khi có quy định khác tại Khoản 2, Điều 35 của Luật Hôn nhân và gia đình.

2. Trong trường hợp một trong hai vợ chồng định đoạt tài sản chung vi phạm quy định tại Khoản 2, Điều 35 của Luật Hôn nhân và gia đình, bên kia có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu.”

Ngoài ra, tại Án lệ số 04/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán TANDTC thông qua ngày 06/4/2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06/4/2016 của Chánh án TANDTC quy định:

Khái quát nội dung của án lệ: Trường hợp nhà đất là tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có một người đứng tên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, người còn lại không ký tên trong hợp đồng; nếu có đủ căn cứ xác định bên chuyển nhượng đã nhận đủ số tiền theo thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết và cùng sử dụng tiền chuyển nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã nhận và quản lý, sử dụng nhà đất đó công khai; người không ký tên trong hợp đồng biết mà không có ý kiến phản đối gì thì phải xác định là người đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà đất.”

Như vậy, từ các quy định trên có thể thấy: Nếu vợ hoặc chồng tự ý bán tài sản chung mà không có sự thỏa thuận của người còn lại và không nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, thì hành vi này vi phạm nguyên tắc định đoạt tài sản chung của vợ chồng, và người bị xâm phạm quyền có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu.

Đặc biệt, đối với các tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (như bất động sản, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, tài sản là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình), nếu việc chuyển nhượng không có sự thỏa thuận bằng văn bản của cả hai vợ chồng, thì một trong hai bên có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Ngược lại, nếu có đủ căn cứ xác định người không ký hợp đồng biết rõ việc chuyển nhượng, đã nhận và cùng sử dụng tiền bán tài sản, không có ý kiến phản đối trong một thời gian dài, thì theo Án lệ 04/2016/AL, giao dịch vẫn có thể được Tòa án công nhận là hợp pháp.

Khi giao dịch bị tuyên vô hiệu, hậu quả pháp lý được xử lý theo Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015, cụ thể:

“Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.

4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

Tin tức liên quan