
THỜI HIỆU YÊU CẦU TÒA ÁN TUYÊN BỐ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU
Khi giao dịch dân sự vô hiệu theo các trường hợp luật định, người có quyền và lợi ích bị xâm phạm có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Vậy thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định như thế nào?
1. Thời hiệu là gì?
Theo khoản 1 Điều 149 BLDS 2015: “Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định. Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan.”
Theo khoản 3, khoản 4 Điều 150 BLDS 2015:
“3. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện.
4. Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu.”
Như vậy, thời hiệu là giới hạn thời gian mà pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện quyền dân sự hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Khi thời hiệu kết thúc, tùy từng trường hợp, chủ thể có thể mất quyền khởi kiện, mất quyền yêu cầu, hoặc bị giới hạn quyền thực hiện nghĩa vụ.
Ví dụ: Ông A cho bà B vay 300 triệu đồng, thỏa thuận thời hạn trả là ngày 01/01/2021. Sau khi đến hạn, bà B không trả nợ. Theo quy định tại Điều 429 BLDS 2015, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án buộc bà B trả nợ là 03 năm kể từ ngày quyền lợi của ông A bị xâm phạm (ngày 01/01/2021). Nếu ông A khởi kiện sau ngày 01/01/2024 mà không có lý do chính đáng, Tòa án có thể từ chối thụ lý vì đã hết thời hiệu khởi kiện.
2. Quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện
Theo quy định tại khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thì: “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”.
Căn cứ vào quy định này, Tòa án không mặc nhiên áp dụng thời hiệu đối với giao dịch dân sự dân sự giữa các bên mà chỉ xem xét khi có một bên hoặc các bên yêu cầu và yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc.
Đồng thời, để bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán không giải thích cho đương sự quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu.
Ngoài ra, khi hết thời hiệu khởi kiện, người khởi kiện vẫn có quyền gửi đơn khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền, yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Theo khoản 2 Điều 149 BLDS 2015 quy định: “Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”, nghĩa là không ai có yêu cầu Tòa án áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện thì Tòa án vẫn giải quyết tranh chấp giao dịch dân sự theo thủ tục chung. Chỉ khi hết thời hiệu khởi kiện và có yêu cầu áp dụng quy định về thời hiệu của một bên hoặc các bên trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết tranh chấp giao dịch dân sự thì Tòa án mới căn cứ quy định tại điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 để quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp giao dịch dân sự. Như vậy, Tòa án không được tự ý viện dẫn lý do đã hết thời hiệu khởi kiện để đình chỉ giải quyết tranh chấp giao dịch dân sự.
3. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
Theo Điều 132 Bộ luật Dân sự 2015, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được chia thành hai nhóm:
(i) Nhóm không bị hạn chế thời hiệu:
Đối với giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội (Điều 123) và giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 124), không áp dụng thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu.
Do đó, bất kỳ chủ thể có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có thể yêu cầu tuyên bố vô hiệu bất cứ lúc nào, không phụ thuộc vào thời gian đã trôi qua kể từ khi giao dịch được xác lập.
(ii) Nhóm bị hạn chế bởi thời hiệu:
Đối với các trường hợp vô hiệu còn lại, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu là 02 năm, được tính từ ngày:
+ Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;
+ Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;
+ Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;
+ Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;
+ Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức.
Lưu ý: Khi hết thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu theo quy định mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì Giao dịch dân sự đó có hiệu lực.
4. Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện tranh chấp giao dịch dân sự dân sự:
Theo quy định tại Điều 156 BLDS năm 2015, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được tính liên tục từ thời điểm bắt đầu cho đến khi kết thúc. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, pháp luật cho phép “tạm dừng” việc tính thời hiệu, nghĩa là khoảng thời gian xảy ra các sự kiện nhất định sẽ không được tính vào thời hiệu khởi kiện hoặc yêu cầu. Cụ thể như sau:
a) Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.
– Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
– Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình.
Ví dụ: Bà A bị lừa dối khi ký hợp đồng mua bán đất vào tháng 3/2021. Theo quy định, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu là 02 năm, tức đến tháng 3/2023. Tuy nhiên, trong năm 2022, bà A bị tai nạn nghiêm trọng, hôn mê kéo dài 10 tháng. Khoảng thời gian 10 tháng này được xem là trở ngại khách quan, nên không tính vào thời hiệu. Do đó, thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu của bà A được kéo dài đến tháng 1/2024.
b) Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Ví dụ: Ông B mất năng lực hành vi dân sự từ năm 2020, nhưng đến tháng 6/2022 Tòa án mới chỉ định người giám hộ hợp pháp cho ông. Khoảng thời gian từ năm 2020 đến tháng 6/2022 (gần 2 năm) không được tính vào thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu mà ông B là một bên tham gia. Như vậy, thời hiệu được tạm dừng và chỉ bắt đầu tính lại kể từ thời điểm người đại diện hợp pháp được xác lập.
c) Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường hợp sau đây:
– Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân;
– Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.
Trong thời gian này, vì người có quyền chưa có đại diện hợp pháp, nên họ chưa thể tự mình thực hiện quyền khởi kiện hoặc yêu cầu. Do đó, pháp luật loại trừ khoảng thời gian này khỏi thời hiệu, đảm bảo công bằng cho bên bị hạn chế năng lực hành vi.
5. Kết luận
Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là một quy định nhằm bảo đảm tính ổn định của các quan hệ dân sự đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong giao dịch. Thực tiễn cho thấy, nhiều tranh chấp dân sự bị đình chỉ hoặc bị bác yêu cầu chỉ vì đương sự không nắm rõ thời hiệu khởi kiện hoặc thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu, dẫn đến mất quyền khởi kiện hoặc mất cơ hội bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Do đó, việc xác định đúng thời điểm bắt đầu, tạm dừng, kéo dài hoặc bắt đầu lại thời hiệu là yếu tố then chốt để vụ việc được giải quyết đúng pháp luật và kịp thời.
KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:
[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng – Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.
[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.
[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com
[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:
Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Giao dịch dân sự | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …