17

Th11

HỢP ĐỒNG BÁN ĐẤT NHƯNG KHÔNG GHI NHÀ TRÊN ĐẤT, CÓ BỊ VÔ HIỆU KHÔNG?

Hiện nay, dù trên đất có nhà và các tài sản khác gắn liền với đất, vì một lí do nào đó mà các bên ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã công chứng, chứng thực nhưng trên nội dung hợp đồng không thể hiện chuyển nhượng nhà và tài sản gắn liền với đất. Trong trường hợp này, hợp đồng có vô hiệu hay không?

1. Bán đất nhưng không bán tài sản trên đất dưới góc độ văn bản pháp luật

1.1. Về điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Theo Điều 45 Luật Đất đai 2024 việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải đáp ứng điều kiện sau:

a) Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp:

– Thừa kế quyền sử dụng đất, chuyển đổi đất nông nghiệp khi dồn điền, đổi thửa, tặng cho quyền sử dụng đất cho Nhà nước, cộng đồng dân cư;

– Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhận chuyển nhượng dự án bất động sản theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản.

– Nhà nước có chính sách khuyến khích việc thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế – xã hội đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở…. nhưng đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất.

b) Đất không có tranh chấp hoặc tranh chấp đã được giải quyết bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bản án, quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phán quyết của Trọng tài đã có hiệu lực pháp luật;

c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên, áp dụng biện pháp khác để bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự;

d) Trong thời hạn sử dụng đất;

đ) Quyền sử dụng đất không bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật.

Ngoài các điều kiện trên thì còn phải đáp ứng các điều kiện theo các trường hợp sau đây:

a) Đối với trường hợp mua, bán tài sản gắn liền với đất, quyền thuê trong hợp đồng thuê đất được Nhà nước cho thuê thu tiền thuê đất hằng năm thì phải đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 46 của Luật đất đai 2024;

b) Đối với trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp thì phải đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 47 của Luật đất đai 2024;

c) Đối với trường hợp thực hiện quyền sử dụng đất của cá nhân là người dân tộc thiểu số được giao đất, cho thuê đất theo quy định tại khoản 3 Điều 16 của Luật này thì phải đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 48 của Luật đất đai 2024.

1.2. Về điều kiện giao dịch nhà ở

Theo quy định tại Điều 160 Luật Nhà ở 2023, Giao dịch về mua bán, thuê mua, tặng cho, đổi, thế chấp, góp vốn bằng nhà ở thì nhà ở phải có đủ điều kiện sau đây:

a) Có Giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp:

– Mua bán, thuê mua, thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai; bán nhà ở trong trường hợp giải thể, phá sản;

– Tổ chức tặng cho nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết;

– Mua bán, thuê mua nhà ở có sẵn của chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở trong các trường hợp sau đây: nhà ở thuộc tài sản công; nhà ở xã hội, nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân, nhà ở phục vụ tái định cư không thuộc tài sản công;

– Cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở;

– Nhận thừa kế nhà ở.

Giấy tờ chứng minh điều kiện nhà ở tham gia giao dịch quy định tại khoản này thực hiện theo quy định của Chính phủ.

b) Không thuộc trường hợp đang có tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện về quyền sở hữu theo quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo;

c) Đang trong thời hạn sở hữu nhà ở đối với trường hợp sở hữu nhà ở có thời hạn;

d) Không bị kê biên để thi hành án hoặc để chấp hành quyết định hành chính đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc không thuộc trường hợp bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp ngăn chặn theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

đ) Không thuộc trường hợp đã có quyết định thu hồi đất, có thông báo giải tỏa, phá dỡ nhà ở của cơ quan có thẩm quyền;

e) Điều kiện quy định tại điểm b và điểm c khoản này không áp dụng đối với trường hợp mua bán, thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai.

1.3. Có được phép bán đất nhưng không bán nhà trên đất không?

Pháp luật hiện hành không đặt ra yêu cầu bắt buộc phải chuyển nhượng cả nhà khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Do đó, các bên có thể thỏa thuận: đất được chuyển nhượng cho bên mua, còn nhà và tài sản gắn liền với đất vẫn thuộc quyền sở hữu của bên bán. Tuy nhiên, việc tách rời giữa quyền sử dụng đất của một người và quyền sở hữu nhà của người khác tiềm ẩn nhiều rủi ro pháp lý, đặc biệt trong trường hợp hợp đồng không mô tả rõ hiện trạng tài sản gắn liền với đất, không quy định cụ thể việc có hay không chuyển quyền sở hữu nhà. Khi phát sinh tranh chấp, hợp đồng chuyển nhượng có thể bị Tòa án tuyên vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được, cụ thể:

Điều 408 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định:

“Điều 408. Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được

1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.

2. Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được.”

Khi có Tòa án tuyên hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu thì các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận theo Điều 131 BLDS 2015:

Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

3. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.”

2. Thực tiễn xét xử đối với trường hợp bán đất nhưng không bán nhà trên đất.

Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp, các vụ việc liên quan đến chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng hợp đồng không ghi nhận việc chuyển nhượng nhà hoặc tài sản gắn liền với đất xuất hiện khá phổ biến. Các Tòa án khi xem xét loại tranh chấp này không chỉ đánh giá theo nội dung hợp đồng, mà còn căn cứ vào hiện trạng thực tế của tài sản, ý chí của các bên tại thời điểm giao kết, và khả năng thực hiện của đối tượng hợp đồng.

Bản án 1: Bản án số 954/2017/ DS-PT ngày 12/10/2017 của Tòa án nhân dân (TAND) Thành phố Hồ Chí Minh

Tóm tắt nội dung bản án:

Bà N ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà T với giá 1,8 tỷ đồng vào các ngày 21/9/2012 và 21/12/2012, kèm theo giấy nhận tiền mà hai bên đều xác nhận đã ký. Sau khi ký hợp đồng, bà T thực hiện thủ tục đăng bộ và được cập nhật đứng tên trên Giấy chứng nhận vào ngày 22/11/2013, đồng thời dùng tài sản này thế chấp vay Ngân hàng TMCP X Việt Nam vào năm 2015. Bà N khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng, hủy giấy nhận tiền, hủy việc đăng bộ và hủy hợp đồng tín dụng, cho rằng chưa nhận tiền mua bán; bà T phản tố yêu cầu công nhận hợp đồng và buộc giao nhà; ngân hàng yêu cầu bà T trả nợ vay. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều xác định bà N đã nhận đủ tiền theo giấy nhận tiền, hợp đồng được công chứng hợp pháp, việc đăng bộ và thế chấp đúng quy định, nên bác toàn bộ yêu cầu của bà N, chấp nhận yêu cầu của bà T và ngân hàng, buộc bà N giao nhà đất cho bà T và buộc bà T trả nợ vay theo hợp đồng tín dụng.

Nhận định của Tòa phúc thẩm:

“Căn cứ giấy nhận tiền có sửa chữa ngày 21/12/2012; căn cứ giấy phép xây dựng P642/GPXD do Ủy ban nhân dân quận Q1 cấp cho bà N ngày 16/11/2011; căn cứ lời khai của bà N tại biên bản hòa giải ngày 11/3/2016; biên bản đối chất ngày 29/9/2016 (Bút lục số 400, 401, 404, 405) xác định giao dịch mua bán nhà đất thực tế giữa bà N với bà T trong tháng 09/2012 và tại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 21/12/2012 là mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Bởi lẽ, bà N đã xác định tại thời điểm giao dịch mua bán thì đất đã có nhà xây dựng theo giấy phép xây dựng do Ủy ban nhân dân quân Q1 cấp, nhà đất tồn tại đến nay. Như vậy, phía bà N cho rằng chỉ chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không bán nhà là không có căn cứ. Trong vụ án này, tại thời điểm chuyển nhượng nhà đất nêu trên thì các bên đương sự xác định tài sản là căn nhà chưa được nhà nước công nhận do việc xây dựng chưa được hoàn công. Như vậy, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hợp pháp mà trên đất có nhà thì không thể cho rằng phía bà N không bán nhà cho bà T. ….”

Như vậy: Đối với bản án trên, Toà án vẫn công nhận giao dịch đối với nhà và đất khi các bên chỉ ký kết hợp đồng chuyển nhượng đối với quyền sử dụng đất (chỉ có đất) do nhà chưa đủ điều kiện để tham gia giao dịch, tức nhà ở chưa được hoàn công để được công nhận trong giấy chứng nhận nên việc mua bán nhà ở chưa được thực hiện theo đúng quy định.

Xem chi tiết bản án:

https://drive.google.com/file/d/18JAcV24PgKcGfeKc95IHXIs9TbYXVul9/view?usp=sharing 

Bản án 2: Bản án số 145/2018/DSPT ngày 20/06/2018 của TAND Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh V/v Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ngày 03/02/2015, ông Huỳnh Ngọc H1 và bà Nguyễn Thị Phương Hoài T có ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà Vương Thị Vĩnh H. Bà H đã giao đủ tiền nhưng không có làm biên nhận vì tin tưởng. Trên thửa đất có căn nhà cấp 4 nhưng không có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở nên không có ghi trong hợp đồng chuyển nhượng tuy nhiên hai bên thoả thuận là chuyển nhượng luôn căn nhà trên đất. Ngoài ra các bên còn thoả thuận sau khi ông H1 thu hoạch xong ao cá rồi mới giao đất. Đến tháng 11/2016, bà H được đứng tên quyền sử dụng đất nhưng ông H1 và bà T không chịu giao đất. Bà H khởi kiện yêu cầu ông H1, bà T thực hiện việc giao nhà và đất theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà hai bên đã ký kết

Nhận định của Tòa phúc thẩm:

“Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BT 974928 thì chỉ xác định quyền sử dụng 750 m2 đất không xác định nhà ở và công trình khác trên đất. Đồng thời sau khi chuyển nhượng, bà H làm thủ tục đăng ký tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện C, Chi nhánh văn phòng xác định chỉ chuyển nhượng quyền sử dụng đất chứ không có tài sản trên đất (BL 53). Theo bà Vương Thị Vĩnh H cho rằng khi chuyển nhượng bà đã thỏa thuận với ông H1, bà T chuyển nhượng cả nhà và đất giá 320.000.000 đồng nhưng khi làm hợp đồng chỉ ghi giá 200.000.000 đồng. Trong hợp đồng không ghi việc chuyển nhượng nhà và tài sản gắn liền với đất vì nhà chưa được cấp quyền sở hữu nhà. Theo lời khai của ông H1, bà T cho rằng lúc đầu là quan hệ vay nợ sau đó thỏa thuận bán đất giá 220.000.000 đồng, không có thỏa thuận bán nhà (ông H1, bà T chỉ nhận số tiền 220.000.000 đồng) không phải 320.000.000 đồng như bà H khai. Ông H1, bà T đồng ý giao đất cho bà H còn nhà thì ông bà sẽ tháo dỡ. Căn cứ vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 03/02/2015 thể hiện ông Huỳnh Ngọc H1 và bà Nguyễn Thị Phương Hoài T chuyển nhượng 750 m2 đất tại thửa số 444 tờ bản đồ số 28 tại ấp A, xã L, huyện C tỉnh Tiền Giang với giá 220.000.000 đồng, ông H1, bà T không bán tài sản trên đất nên Tòa án cấp sơ thẩm xử cho phép ông H1, bà T và các thành viên trong gia đình được quyền tháo dỡ các công trình xây dựng trên đất trong thời hạn 6 tháng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật để giao trả lại diện tích đất (theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà UBND huyện C đã cấp cho bà Vương Thị Vĩnh H) cho bà H là đúng quy định của pháp luật. Bà Vương Thị Vĩnh H kháng cáo cho rằng khi chuyển nhượng đất thì chuyển nhượng cả nhà nhưng bà H không có chứng cứ chứng minh việc chuyển nhượng nhà nên đơn kháng cáo của bà H không có cơ sở chấp nhận.”

Như vậy: Bản án trên, tòa án không công nhận cho bên mua được quyền quản lý, sử dụng nhà ở gắn liền với đất khi các bên ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (không có tài sản trên đất), nhưng trên đất có tồn tại nhà ở chưa được hoàn công.

Xem chi tiết bản án:

https://drive.google.com/file/d/1di9wvyE9Lk_jd47CqL_kVS1w-nM-Uoch/view?usp=sharing 

Bản án 3: Bản án số 21/2019/DS-ST ngày 03/05/2019 của TAND Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương V/v tranh chấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở; tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ông Lê Văn Ch và bà Lê Ngọc A là chị em ruột, ngày 07/9/2006 hai bên ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 446 (670), diện tích 397m² với giá 45.000.000 đồng; ông Ch đã giao đủ tiền và được sang tên ngày 03/11/2006. Trên đất có nhà cấp 4 diện tích 107,9m² nhưng chưa được cấp quyền sở hữu nên không ghi trong hợp đồng, tuy nhiên thực tế việc chuyển nhượng bao gồm cả nhà và đất, không ai trong gia đình bà A phản đối. Sau khi nhận chuyển nhượng, do không có điều kiện quản lý, ông Ch cho bà A tiếp tục ở nhờ bằng lời nói, không cho gia đình bà M sinh sống. Khi phát hiện gia đình bà M ở trên nhà đất và có phần nhà 56,8m² do bà K và ông S xây dựng thêm, ông Ch khởi kiện yêu cầu bà M trả lại toàn bộ nhà đất và buộc bà K, ông S tháo dỡ phần nhà đã xây, trả lại hiện trạng ban đầu.

Nhận định của tòa sơ thẩm:

“[4] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Lê Tuyết M và yêu cầu độc lập của bà Lê Ngọc A, thấy rằng: Tại thời điểm bà A, ông Ch ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (ngày 07/9/2006), trên đất đã có căn nhà cấp 4 gắn liền thửa đất. Sự việc này được ông Ch thừa nhận tại Đơn khởi kiện ngày 17/5/2016 (bút lục 02) nên thuộc tình tiết không cần phải chứng minh quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, ở mục tài sản gắn liền với đất trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/9/2006, ông Ch, bà A không ghi căn nhà trên đất có là có thiếu sót, vì căn nhà và thửa đất là một khối thống nhất, không thể tách rời để chuyển nhượng và mua bán. Căn nhà được xây dựng kiên cố, có diện tích rất lớn 108,5 m 2 được bà A thừa nhận, ông Hoàng Văn D làm chứng do bà M xây dựng để sinh sống cùng bà A. Ông Ch là em ruột bà A, là cậu bà M biết rất rõ quá trình sinh sống, quản lý, sử dụng đất của bà M, bà A và việc hình thành căn nhà nhưng khi ký hợp đồng chuyển nhượng đất với bà A, ông Ch không ghi căn nhà gắn liền với thửa đất, không thông báo cho gia đình bà M biết là nhằm che giấu việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng đất với gia đình bà M. Việc không ghi căn nhà gắn liền với thửa đất dẫn đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà A và ông Ch có đối tượng không thể thực hiện. Vì vậy, theo quy định tại Điều 411 Bộ luật Dân sự năm 2005 (nay là Điều 408 Bộ luật Dân sự năm 2015), Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/9/2006 giữa bà A và ông Ch bị vô hiệu ngay từ khi giao kết hợp đồng.”

Như vậy: Bản án trên, tòa sơ thẩm đã cho rằng việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có tồn tại căn nhà trên đất là vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được.

Xem chi tiết bản án:

https://drive.google.com/file/d/1LFnL81BjpRiT6F45yWWp-A7RspHTHp0o/view?usp=sharing 

Kết luận

Pháp luật không cấm việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không chuyển nhượng nhà trên đất, tuy nhiên việc tách rời hai loại tài sản này chỉ an toàn khi theo ý chí thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu hợp đồng chỉ ghi nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng trên đất có nhà ở thì khi tranh chấp, Tòa án có thể xem xét hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện, dẫn đến hậu quả các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận theo Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015.

Thực tiễn xét xử cho thấy Tòa án có những đánh giá khác nhau tùy từng hoàn cảnh cụ thể: có trường hợp công nhận việc chuyển nhượng cả nhà và đất dù hợp đồng chỉ ghi đất (do nhà chưa đủ điều kiện để tham gia giao dịch); có trường hợp chỉ công nhận việc chuyển nhượng đất và cho phép bên bán tháo dỡ nhà; và cũng có trường hợp tuyên hợp đồng vô hiệu vì nhà và đất là khối tài sản không thể tách rời nhưng hợp đồng lại không thể hiện đầy đủ đối tượng giao dịch.Vì vậy, khi chuyển nhượng đất có tài sản gắn liền với đất, để tránh tranh chấp và nguy cơ hợp đồng bị vô hiệu, các bên phải mô tả đầy đủ hiện trạng nhà ở, xác định rõ phạm vi tài sản được chuyển nhượng trên hợp đồng chuyển nhượng và bảo đảm tài sản đáp ứng điều kiện pháp lý để tham gia giao dịch.

 

Tài liệu tham khảo:

https://scholar.dlu.edu.vn/thuvienso/bitstream/DLU123456789/246712/1/CVv213S072023022.pdf 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

 

Tin tức liên quan