25

Th12

CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN: CHIA TÀI SẢN THEO NGUYÊN TẮC NÀO?

Trong thực tiễn đời sống xã hội, việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn diễn ra khá phổ biến vì nhiều lý do khác nhau, như chưa đủ điều kiện đăng ký, tâm lý ngại thủ tục, hoặc chủ quan cho rằng chỉ cần sống chung lâu dài là đủ để được pháp luật bảo vệ. Trong quá trình chung sống, các bên thường cùng tạo lập tài sản, cùng lao động, đầu tư, thậm chí có con chung, dẫn đến việc tài sản hình thành ngày càng phức tạp và gắn chặt với đời sống gia đình.

Tuy nhiên, khi quan hệ chung sống này chấm dứt, không ít trường hợp phát sinh tranh chấp gay gắt về tài sản do các bên nhầm lẫn giữa quan hệ hôn nhân hợp pháp và quan hệ chung sống không đăng ký kết hôn.

1. Thế nào là sống chung như vợ chồng?

Khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đã đưa ra định nghĩa: “Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng”

Như vậy có thể thấy, việc chung sống như vợ chồng không chỉ đơn thuần là cùng sinh hoạt dưới một mái nhà, mà còn thể hiện ở việc nam, nữ xác lập và duy trì mối quan hệ ổn định, lâu dài, cùng nhau tổ chức đời sống chung và được nhìn nhận như vợ chồng trong thực tế. Các dấu hiệu thường được xem xét để xác định tình trạng chung sống như vợ chồng bao gồm việc cùng ăn ở, sinh hoạt chung, cùng chăm sóc, nuôi dưỡng con cái, cùng quản lý tài sản, cũng như cách các bên xưng hô, giới thiệu với gia đình, xã hội và cộng đồng xung quanh.

2. Quy định pháp luật về xử lý tài sản chung khi nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ngoài việc ghi nhận kết hôn, quan hệ giữa vợ, chồng, quan hệ giữa cha, mẹ và con, quan hệ giữa các thành viên khác của gia đình, việc cấp dưỡng,… còn quy định việc giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Theo đó, khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.”.

Như vậy, điều luật quy định rõ, việc chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ không được pháp luật thừa nhận; không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Do đó, việc giải quyết hậu quả về tài sản khi nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn giải quyết theo quy định tại Điều 16 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

“1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.”.

Như vậy, trường hợp nam nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống như vợ chồng thì không làm phát sinh quan hệ vợ chồng nên không có quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng. Quan hệ tài sản sẽ được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Điều 207 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về sở hữu chung như sau:

“1. Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản.

2. Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất.”.

Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về chia tài sản thuộc hình thức sở hữu chung như sau:

“1. Trong trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu các chủ sở hữu chung đã thoả thuận không phân chia tài sản chung trong một thời hạn thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để chia.

2.Trong trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán khi người đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán và được tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.”.

Ngoài ra, khoản 4 Điều 3 của Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình quy định:

“Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết hôn hay không) và có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý, giải quyết và áp dụng Điều 9 và Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ. Nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật hôn nhân và gia đình.”.

Như vậy, đối với trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không có đăng ký kết hôn thì khi phát sinh yêu cầu giải quyết về chia tài sản thì văn bản quy phạm pháp luật hiện hành quy định được thực hiện như sau:

– Tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc về người đó.

– Tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án căn cứ quy định của Bộ luật Dân sự về chia tài sản chung để giải quyết trong trường hợp này. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.

2. Thực tiễn tranh chấp tài sản chung giữa nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

Bản án 1: Bản án số 29/2024/HNGĐ-PT ngày 19/8/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Tóm tắt nội dung vụ án:

Anh T và chị Lê Thị H sống chung như vợ chồng từ năm 1996, không đăng ký kết hôn, có 02 con chung. Trong thời gian chị H đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan, anh T ở nhà nuôi con và làm vườn. Năm 2005, từ tiền bán vườn và tiền chị H gửi về, hai bên mua thửa đất tại xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An thông qua đấu giá của địa phương. Năm 2006, thửa đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ bà Lê Thị H.

Anh T cho rằng thửa đất là tài sản chung của hộ gia đình gồm 04 người và việc chị H tự ý chuyển nhượng đất cho ông Nguyễn Đức H1 khi không có sự đồng ý, chữ ký của anh là vi phạm quy định về định đoạt tài sản chung. Do đó, anh T yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và chia thửa đất cho các thành viên trong hộ gia đình, không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng với ông H1; hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu do các bên tự giải quyết.

Nhận định của tòa án:

“2.3]. Về việc chia tài sản chung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ thể hiện chị H là người bỏ tiền ra để nhận đấu giá quyền sử dụng đất thửa đất số 04 (nay là thửa đất số 24) tờ bản đồ số 29 tại xóm G (nay là thôn A), xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An; còn anh T có công sức trong việc chăm sóc, nuôi dạy các con chung để chị H đi lao động tại Đài Loan. Tòa án cấp sơ thẩm trích chia công sức cho anh T bằng 1/10 giá trị tài sản chung là chưa thỏa đáng; do đó, cấp phúc thẩm sẽ sửa lại theo hướng xác định anh T có công sức đóng góp tương đương 2/10 giá trị tài sản.

[2.4]. Đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/12/2012 giữa chị Lê Thị H và ông Nguyễn Đức H1, xét thấy:

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chị H và ông H1 không phù hợp quy định pháp luật vì trong hợp đồng ghi nhận có sự tham gia và chữ ký ghi tên anh T nhưng thực tế anh T không tham gia cũng như không biết việc ký hợp đồng giữa chị H và ông H1, tên anh T được ghi trong hợp đồng chuyển nhượng là do ông H1 tự ghi vào (nội dung này đã được ông H1 thừa nhận). Trong khi đó, thửa đất chuyển nhượng là tài sản chung của chị H và anh T nên việc chị H tự ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không có sự đồng ý của anh T là vi phạm quy định về định đoạt tài sản chung. Tòa án cấp sơ thẩm không tuyên vô hiệu đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/12/2012 giữa chị Lê Thị H và ông Nguyễn Đức H1 là không đúng, cấp phúc thẩm sẽ sửa lại nội dung này.”

Xem chi tiết bản án:

https://drive.google.com/file/d/1MAGCB36s4Ct29-zNuJOYU5rIXQwR9MOK/view?usp=sharing 

Bản án 2: Bản án số 04/2023/HNGĐ-PT ngày 24/4/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ông Lê Phước C và bà Nguyễn Thị L chung sống với nhau từ cuối năm 1988 nhưng không đăng ký kết hôn. Tòa án không công nhận họ là vợ chồng. Ông C yêu cầu chia tài sản chung và nợ chung được tạo lập trong thời gian chung sống. Bà L đồng ý chia tài sản và nợ chung. Tổng trị giá tài sản chung được xác định là 3.859.336.000 đồng.

Nhận định của tòa án:

“ Trong quá trình sống chung, ông Lê Phước C và bà Nguyễn Thị L tạo  lập được khối tài sản chung bao gồm: 

– Quyền sử dụng đất 1.700m2tại Khóm I (Khóm K cũ), thị trấn B,  huyện V theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 430768 do UBND  huyện V cấp ngày 06/5/2011 cho ông Lê Phước C, bà Nguyễn Thị L. Diện tích  đất trên có nguồn gốc năm 1990, ông Lê Hồng L và bà Nguyễn Thị Hải Y (em gái bà L) được Nông trường Q thanh lý 10.000m2 đất. Ngày 15/6/1990, ông  L, bà Y đã nhượng lại cho bà L diện tích đất 400m2 (dài 20m, rộng 20m) thuộc  thửa đất số 33, tờ bản đồ số 7, tại Khóm I (Khóm K cũ), thị trấn B, huyện V trong  tổng số 10.000m2. Trong tổng diện tích đất 1.700m2 mà ông C, bà L được cấp  giấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có 1.300m2 đất là của ông L, bà Y. Còn  400m2, mặc dù bà L được ông L, bà Y nhượng lại nhưng bà L đã đưa vào sử dụng  chung trong thời gian chung sống với ông C và đã được nhà nước cấp giấy chứng  nhận quyền sử dụng đất cho ông C và bà L nên diện tích 400m2 đất này là tài sản  chung của ông C, bà L, trong đó 200m2đất ở, 200m2 trồng cây, trị giá lô đất là  1.035.600.000đ.  

– Ngôi nhà chính, công trình phụ kèm theo toạ lạc trên diện tích 1.700m2tại  Khóm I (Khóm K cũ), thị trấn B, huyện V có trị giá là 292.453.000đ, trong đó có  phần hàng rào được xây dựng năm 2016, lúc này ông C đi làm ăn ở Lào, bà L tự xây dựng nên phần làm thêm này được xác định là tài sản riêng của bà L có trị giá 52.079.000đ. Tài sản chung xác định là 240.374.000đ. 

– Diện tích đất 6.704m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC  430321 ngày 19/10/2011 của UBND huyện V có trị giá là 254.752.000đ. Trên  diện tích đất gồm có 150 cây cao su trị giá 118.800.000đ và 1000 cây tràm trị giá 57.000.000đ. Cây tràm do vợ chồng bà Y, ông L được bà L cho trồng trên đất từ năm 2017 nên xác định là tài sản của ông L, bà Y, còn quyền sử dụng đất và cây  cao su là tài sản chung của ông C, bà L có trị giá 373.552.000đ. 

– Số cây cao su trên diện tích 05ha tại thị trấn B, huyện V, tỉnh Quảng Trị: bà  L là nhân viên công tác tại Nông trường Q nên được Nông trường giao khoán  diện tích này vào năm 1996, năm 2008 trồng cây. Tại thời điểm trồng cây, ông C với bà L đang chung sống với nhau, cùng trồng trọt nên được xem là tài sản chung, cây cao su trị giá 1.491.435.000đ.”

Xem chi tiết bản án:

https://drive.google.com/file/d/1HhYCiF6Ky_cDVUV5TdmDmTY0JiuLbGw4/view?usp=sharing 

Như vậy: Khi giải quyết tranh chấp tài sản giữa vợ chồng (hoặc nam nữ sống chung có tạo lập tài sản chung), Tòa án không chỉ căn cứ vào nguồn gốc hình thành tài sản, việc ai là người đứng tên hoặc trực tiếp bỏ tiền, mà còn đánh giá toàn diện công sức đóng góp của mỗi bên trong quá trình tạo lập, duy trì và phát triển tài sản chung. Đồng thời, đối với việc định đoạt tài sản chung của 1 bên mà không có sự đồng ý của đồng sở hữu, Tòa án có thể tuyên vô hiệu giao dịch chuyển nhượng này.

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

Tin tức liên quan