UBND CẤP SỔ SAI, NGƯỜI DÂN CÓ QUYỀN YÊU CẦU BỒI THƯỜNG KHÔNG ?
Trong thực tiễn quản lý đất đai, không ít trường hợp Ủy ban nhân dân cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (thường gọi là “sổ đỏ”) không đúng quy định pháp luật, dẫn đến việc người dân bị thu hồi sổ, mất quyền sử dụng đất, hoặc phát sinh tranh chấp kéo dài. Một vấn đề pháp lý thường được đặt ra là: khi UBND cấp sổ sai, người dân có quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường hay không, và điều kiện để được bồi thường là gì?
1. Các dạng cấp sổ sai thường gặp trong thực tiễn
Hoạt động cấp Giấy chứng nhận là hoạt động quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực đất đai. Do đó, việc UBND cấp sổ sai về bản chất là hành vi hành chính trái pháp luật, thể hiện ở việc ban hành hoặc thực hiện quyết định hành chính không phù hợp với quy định của pháp luật đất đai tại thời điểm cấp. Hành vi này có thể vi phạm một hoặc nhiều yếu tố như: Sai thẩm quyền, đối tượng, điều kiện, trình tự, thủ tục, nội dung của Giấy chứng nhận.
Trên thực tế, việc UBND cấp Giấy chứng nhận trái pháp luật thường rơi vào các trường hợp điển hình sau:
Thứ nhất, cấp Giấy chứng nhận không đúng thẩm quyền: Đây là trường hợp việc cấp Giấy chứng nhận được thực hiện bởi cơ quan nhà nước không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật đất đai, hoặc vượt quá phạm vi thẩm quyền được giao.
Thứ hai, cấp Giấy chứng nhận không đúng đối tượng sử dụng đất: Hành vi này xảy ra khi người được cấp Giấy chứng nhận chưa đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định, điển hình như: người được cấp sổ đỏ chưa đáp ứng đủ những điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như là thửa đất được cấp Giấy chứng nhận đang xảy ra tranh chấp, hoặc người sử dụng đất chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính nhưng đã được tiến hành cấp Giấy chứng nhận hoặc thậm chí người được cấp Giấy chứng nhận không có quyền sử dụng đất.
Thứ ba, cấp Giấy chứng nhận không đúng diện tích, ranh giới thửa đất: Sai phạm thể hiện ở việc diện tích, kích thước, ranh giới thửa đất ghi nhận trên Giấy chứng nhận không phù hợp với hồ sơ địa chính, kết quả đo đạc thực tế hoặc hiện trạng sử dụng đất. Việc ghi nhận sai diện tích thường dẫn đến tình trạng chồng lấn, lấn chiếm, phát sinh tranh chấp đất đai, gây khó khăn lớn cho công tác quản lý và giải quyết tranh chấp về sau.
Thứ tư, cấp Giấy chứng nhận cho thửa đất không đủ điều kiện được cấp: Bao gồm các trường hợp thửa đất không có giấy tờ pháp lý chứng minh nguồn gốc sử dụng đất hợp pháp, hoặc đất đang có tranh chấp nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền giải quyết, kết luận dứt điểm. Việc cấp Giấy chứng nhận trong những trường hợp này là vi phạm trực tiếp các điều kiện cấp Giấy chứng nhận theo luật đất đai, tiềm ẩn nguy cơ bị thu hồi, hủy bỏ.
Thứ năm, cấp Giấy chứng nhận không đúng mục đích sử dụng đất: Sai phạm xảy ra khi mục đích sử dụng đất được ghi nhận trên Giấy chứng nhận không phù hợp với hiện trạng sử dụng đất thực tế, hoặc không phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt. Việc xác định sai mục đích sử dụng đất không chỉ làm sai lệch hồ sơ địa chính mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền khai thác, sử dụng đất của người dân.
Thứ sáu, cấp Giấy chứng nhận không đúng thời hạn sử dụng đất: Trường hợp này phát sinh khi thời hạn sử dụng đất ghi trên Giấy chứng nhận không đúng với thời hạn được pháp luật cho phép, hoặc Giấy chứng nhận được cấp cho thửa đất đã hết thời hạn sử dụng nhưng chưa được gia hạn hợp pháp. Sai phạm về thời hạn sử dụng đất thường dẫn đến tranh chấp khi Nhà nước thu hồi đất hoặc khi người sử dụng đất thực hiện các giao dịch dân sự.
Thứ bảy, ghi nhận sai nguồn gốc sử dụng đất: Nguồn gốc sử dụng đất được ghi nhận trên Giấy chứng nhận không đúng với thực tế hình thành thửa đất, hoặc hợp thức hóa cho nguồn gốc sử dụng đất không hợp pháp. Đây là dạng vi phạm tiềm ẩn rủi ro pháp lý cao, bởi khi bị phát hiện, Giấy chứng nhận thường bị thu hồi, kéo theo quyền lợi của người sử dụng đất bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
2. Trách nhiệm bồi thường của nhà nước khi cấp giấy chứng nhận trái pháp luật
Theo Điều 6, 7 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước không phát sinh một cách đương nhiên, mà chỉ được xác lập khi đồng thời hội đủ ba điều kiện bắt buộc, bao gồm:
Một là, có một trong các căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại và yêu cầu bồi thường.
Theo khoản 2 Điều 7 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại và yêu cầu bồi thường tương ứng bao gồm:
a) Có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường theo quy định của Luật này và có yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại hoặc Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự giải quyết yêu cầu bồi thường;
b) Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính đã xác định có hành vi trái pháp luật của người bị kiện là người thi hành công vụ gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và có yêu cầu bồi thường trước hoặc tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại;
c) Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự đã xác định có hành vi trái pháp luật của bị cáo là người thi hành công vụ gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự, thi hành án dân sự và có yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Hai là, có thiệt hại thực tế của người bị thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước.
Thiệt hại phải là thiệt hại có thật, xác định được và thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, chẳng hạn như thiệt hại về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, thiệt hại do không thực hiện được giao dịch dân sự, chi phí khắc phục hậu quả, chi phí tố tụng hợp lý. Những thiệt hại mang tính suy đoán hoặc không chứng minh được sẽ không được xem là căn cứ bồi thường.
Ba là, có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây thiệt hại.
Thiệt hại phát sinh phải là hệ quả trực tiếp của việc cấp Giấy chứng nhận trái pháp luật, không phải do lỗi hoàn toàn của người sử dụng đất hoặc bên thứ ba. Đây là yếu tố thường gây tranh luận nhiều nhất trong thực tiễn giải quyết yêu cầu bồi thường.
Bốn là, việc yêu cầu bồi thường phải còn trong thời hiệu
Theo khoản 1 Điều 6 Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước:
“1. Thời hiệu yêu cầu bồi thường là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu bồi thường quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 5 của Luật này nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 52 của Luật này và trường hợp yêu cầu phục hồi danh dự.
2. Thời hiệu yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hành chính được xác định theo thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính.
3. Thời gian không tính vào thời hiệu yêu cầu bồi thường:
a) Khoảng thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của Bộ luật Dân sựl àm cho người có quyền yêu cầu bồi thường quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 5 của Luật này không thể thực hiện được quyền yêu cầu bồi thường;
b) Khoảng thời gian mà người bị thiệt hại là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi chưa có người đại diện theo quy định của pháp luật hoặc người đại diện đã chết hoặc không thể tiếp tục là người đại diện cho tới khi có người đại diện mới.
4. Người yêu cầu bồi thường có nghĩa vụ chứng minh khoảng thời gian không tính vào thời hiệu quy định tại khoản 3 Điều này.”
Như vậy, trong trường hợp cấp Giấy chứng nhận trái pháp luật thì người sử dụng đất có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu chứng minh đầy đủ các điều kiện theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, gồm: có căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, có thiệt hại thực tế thuộc phạm vi bồi thường, có mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa hành vi và thiệt hại, đồng thời yêu cầu bồi thường còn trong thời hiệu luật định.
3. Thực tiễn yêu cầu bồi thường nhà nước
Thực tiễn xét xử cho thấy, Tòa án đã chấp nhận yêu cầu bồi thường của người dân trong nhiều vụ việc UBND cấp sổ sai, buộc Nhà nước phải bồi thường số tiền rất lớn khi thiệt hại được chứng minh rõ ràng. Điển hình như Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã có bản án buộc UBND huyện Trảng Bom phải bồi thường hơn 2 tỷ đồng cho bà Nguyễn Thị Nga do có sai phạm trong hoạt động cấp và thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ). Nguyên đơn là bà Nga, người đã mua đất hợp pháp và được cấp sổ đỏ nhưng sau đó UBND huyện thu hồi lại giấy chứng nhận một cách bất ngờ, khiến bà bị thiệt hại về giá trị quyền sử dụng đất, chi phí phạt hợp đồng cho thuê, thuế, lệ phí… sau gần 10 năm đi khiếu nại, khởi kiện. Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm nhận định việc cấp sổ đỏ sai của UBND huyện dẫn đến thiệt hại cho bà Nga, nên cơ quan này phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại theo yêu cầu.
Ngược lại, cũng không ít trường hợp yêu cầu bồi thường bị bác bỏ do: Không chứng minh được thiệt hại thực tế; Thiệt hại phát sinh chủ yếu từ lỗi của người dân; Chỉ có sai sót hình thức nhưng không gây thiệt hại như tại Bản án 725/2024/DS-PT ngày 09/09/2024 về đòi bồi thường thiệt hại theo luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Theo bản án: Nguyên đơn là ông Ngô Minh P và bà Nguyễn Ngọc M, khởi kiện bị đơn là UBND thành phố C (đại diện cho Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính về đất đai). Nguyên đơn yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND cấp cho ông Trang Văn N (và các chỉnh lý sang tên sau đó), với lý do Giấy chứng nhận được cấp trái pháp luật, đồng thời yêu cầu Nhà nước bồi thường thiệt hại theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, tương ứng với giá trị quyền sử dụng đất mà nguyên đơn cho rằng mình bị mất do việc cấp sổ sai.
Tòa án nhận định:
“[3.3] Do ông N được Nhà nước công nhận và xác lập quyền qua việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng thực chất không có đất trên thực tế. Như vậy, ông N mới là người bị xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp trong trường hợp này, nên chỉ có ông N mới có quyền khiếu nại yêu cầu giải quyết hoặc khởi kiện yêu cầu bồi thường theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Ông P, bà M nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông N trong khi ông N chưa được Nhà nước giao đất, là giao dịch vô hiệu ngay từ khi xác lập do có đối tượng không thể thực hiện được. Vì vậy quyền, lợi ích hợp pháp của ông P, bà M bị xâm phạm, bị thiệt hại xuất phát từ ký kết giao dịch, hợp đồng vô hiệu chứ không trực tiếp bị quyết định cá biệt là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp trái quy định pháp luật xâm hại nên không có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đòi Ủy ban nhân dân thành phố C, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố C và Ủy ban nhân dân quận N bồi thường thiệt hại theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là thuộc trường hợp đình chỉ giải quyết theo quy định điểm a khoản 1 Điều 192, điểm g khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.”
Xem chi tiết bản án:
https://drive.google.com/file/d/1bfuz4rGINlKykH02WAeTyIerDCyp1nf3/view?usp=sharing
Như vậy tại bản án trên nguyên đơn không chứng minh được thiệt tại từ hành vi sai phạm của cơ quan nhà nước nên không được tòa án chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại.
KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:
[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng – Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.
[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.
[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com
[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:
Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …