27

Th5

NHẬN DIỆN VI PHẠM TỪ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ BỊ HỘI ĐỒNG GIÁM ĐỐC THẨM HỦY ĐỂ ĐIỀU TRA LẠI, XÉT XỬ LẠI

Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực để điều tra lại hoặc xét xử lại là những hình thức thực hiện thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm để khắc phục những sai sót cũng như để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan trong vụ án. Dưới đây là tổng hợp những vi phạm được rút ra từ thực tiễn giải quyết những vụ án bị hủy bởi Hội đồng giám đốc thẩm để điều tra lại, xét xử lại.

1. Khi nào bản án hình sự bị Hội đồng giám đốc thẩm hủy để điều tra lại, xét xử lại

Căn cứ Điều 391 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Hội đồng giám đốc thẩm hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại nếu có một trong các căn cứ quy định tại Điều 371 của Bộ luật này bao gồm:

1. Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;

2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án;

3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

Theo đó, nếu hủy để xét xử lại thì tùy trường hợp, Hội đồng giám đốc thẩm có thể quyết định xét xử lại từ cấp sơ thẩm hoặc cấp phúc thẩm. Trường hợp xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo thì Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định tạm giam cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Tòa án thụ lý lại vụ án.

2. Thời hạn chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại

Căn cứ theo Điều 396 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, nếu Hội đồng giám đốc thẩm quyết định hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ra quyết định, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Viện kiểm sát cùng cấp để điều tra lại theo thủ tục chung quy định tại Bộ luật này.

Nếu Hội đồng giám đốc thẩm quyết định hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử lại vụ án ở cấp sơ thẩm hoặc ở cấp phúc thẩm thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ra quyết định, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Tòa án có thẩm quyền để xét xử lại theo thủ tục chung quy định tại Bộ luật này.

3. Nhận diện vi phạm từ các vụ án bị Hội đồng giám đốc thẩm hủy để điều tra lại, xét xử lại

Thực tế xét xử cho thấy vi phạm trong giải quyết vụ án hình sự làm căn cứ để Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định hủy để điều tra lại hoặc xét xử lại là do sai phạm trong quá trình tố tụng cũng như liên quan đến nghiệp vụ của người tiến hành tố tụng. Theo đó, những dạng vi phạm của cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm, phúc thẩm trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến phải hủy bản án, quyết định để điều tra lại hoặc xét xử lại thường thấy như sau:

Thứ nhất, đối với những vụ án bị Hội đồng giám đốc thẩm hủy để điều tra lại thường mắc các vi phạm sau:

Xác định tội danh không đúng dẫn đến kết án bị cáo về tội nhẹ hơn:

Những tội danh mà cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm, phúc thẩm xác định không đúng thường là: Cố ý gây thương tích; cưỡng đoạt tài sản; tàng trữ trái phép chất ma túy; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức… Bởi thực tế, hành vi khách quan mà các bị cáo thực hiện có dấu hiệu của tội danh nặng hơn như: Giết người; cướp tài sản; tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; tham ô tài sản; giả mạo trong công tác…

Ví dụ: Bị cáo có hành vi sử dụng hung khí nguy hiểm, tấn công với mức độ quyết liệt vào các vị trí trọng yếu trên cơ thể bị hại (đầu, ngực, cổ, bụng…), nhưng các cơ quan tố tụng thường chỉ tập trung vào hậu quả của hành vi phạm tội là bị hại không chết, mà không xem xét đầy đủ chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, không đánh giá chính xác về hành vi khách quan, mục đích phạm tội của các bị cáo để xác định tội danh; do đó, đã điều tra, truy tố, xét xử bị cáo về Tội cố ý gây thương tích. Đối với các trường hợp này, bị cáo buộc phải nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm đến tính mạng của bị hại, nhưng vẫn thực hiện hành vi rất quyết liệt, trường hợp bị hại không chết là nằm ngoài ý muốn của bị cáo. Vì vậy, Hội đồng giám đốc thẩm đã hủy bản án để điều tra lại, truy cứu bị cáo về Tội giết người theo đúng quy định của pháp luật.

Bỏ lọt hành vi phạm tội hoặc người phạm tội:

Bỏ lọt hành vi phạm tội: Trong các vụ án này, bị cáo thường thực hiện nhiều hành vi khách quan, xâm phạm nhiều khách thể khác nhau, nhưng cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm, phúc thẩm đã đánh giá không đúng, thiếu toàn diện đối với tính chất của các hành vi khách quan, hoặc chỉ chú trọng đến hành vi gây ra hậu quả nên bỏ sót hành vi khách quan có dấu hiệu của một tội phạm khác.

Ví dụ: Một số vụ án cướp tài sản, sau khi dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản, bị cáo lại tiếp tục khống chế, bắt ép bị hại lên xe mô tô đưa đi nơi khác, không cho bị hại vượt ra khỏi tầm kiểm soát của bị cáo. Đây là dấu hiệu cấu thành Tội bắt, giữ người trái pháp luật, nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng không điều tra, làm rõ về hành vi này, mà chỉ kết án các bị cáo về Tội cướp tài sản.

Bỏ lọt người phạm tội: Điểm chung của các vụ án bị hủy để điều tra lại trong trường hợp này là các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đủ để chứng minh ngoài bị cáo, còn có một hoặc nhiều người khác cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội, nhưng cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm và phúc thẩm không phát hiện ra hoặc phát hiện nhưng không đề cập, truy cứu trách nhiệm hình sự các đối tượng này.

Ví dụ: Trong vụ án cưỡng đoạt tài sản, ngoài các bị cáo bị kết án về Tội cưỡng đoạt tài sản, còn có B biết rõ việc đòi nợ, đã môi giới việc đòi nợ thuê và được các bị cáo chia cho 02 triệu đồng tiền công; nhưng quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan tố tụng không đề cập đến việc xem xét vai trò của các đối tượng này là có dấu hiệu bỏ lọt người phạm tội.

Xác định tình tiết định khung hình phạt không đúng:

Đặc điểm chung của các vụ án có sai sót nghiêm trọng trong việc xác định tình tiết định khung hình phạt là: Thực chất hành vi phạm tội của bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở khung hình phạt nặng hơn, nhưng do cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm, phúc thẩm đánh giá không chính xác, thiếu toàn diện các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc có vi phạm trong hoạt động tố tụng, dẫn đến xác định không đúng tuổi, đặc điểm nhân thân của bị cáo; định giá tài sản hoặc kết luận về tỉ lệ thương tật không đúng; đánh giá không đúng tính chất của hành vi phạm tội; thiếu sót trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ, dẫn đến đánh giá các tình tiết khách quan không chính xác, không đảm bảo toàn diện, nên đã kết án các bị cáo ở khung hình phạt nhẹ hơn, khiến việc giải quyết vụ án không triệt để, không đúng quy định của pháp luật, quyết định của Tòa án về mức độ trách nhiệm hình sự và trách nhiệm bồi thường dân sự của bị cáo không tương xứng với tính chất của hành vi phạm tội, không phản ánh toàn bộ bản chất của vụ án.

Vi phạm về áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án:

Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm giới hạn xét xử: Giới hạn xét xử là quy định quan trọng của Bộ luật Tố tụng hình sự, có vai trò bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo trong các vụ án hình sự. Theo đó, Tòa án chỉ xét xử bị cáo và hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, Tòa án đã xét xử bị cáo về hành vi phạm tội không được Viện kiểm sát truy tố.

Tình tiết khách quan của vụ án có vai trò là tình tiết định khung hình phạt nhưng không được điều tra làm rõ: Chẳng hạn, trong vụ án cố ý gây thương tích, lời khai của bị cáo và bị hại mâu thuẫn nhau về hành vi khách quan dẫn đến thương tích, thương tích thực tế không phù hợp với tính chất của hành vi khách quan mà bị cáo thực hiện, một số tình tiết liên quan đến việc xác định cơ chế hình thành thương tích, tỉ lệ thương tật không được điều tra làm rõ; hoặc trong vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án còn mâu thuẫn về việc xác định bị cáo có hay không có giấy phép lái xe, nhưng không được điều tra làm rõ, dẫn đến việc xác định khung hình phạt không chính xác, thiếu cơ sở pháp lý.

Không xác minh làm rõ tuổi, đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo: Một số dạng vi phạm phổ biến trong việc xác định tuổi, đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo thường là: Không xác định chính xác tuổi của bị cáo, dẫn đến vi phạm các quy định về tố tụng đối với người dưới 18 tuổi; không xác định chính xác lý lịch của bị cáo, dẫn đến bị cáo khai tên khác với tên thực tế đăng ký khai sinh; không điều tra, xác minh các tiền án, tiền sự của bị cáo, dẫn đến việc bỏ lọt hành vi phạm tội trong trường hợp tài sản trộm cắp trị giá dưới 02 triệu đồng, bỏ sót “tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Thứ hai, những vụ án bị Hội đồng giám đốc thẩm tuyên hủy để xét xử lại thường mắc những vi phạm như:

Xác định tội danh không đúng:

Kết án bị cáo không đúng với tội danh đã truy tố hoặc khởi tố: Đây là trường hợp ban đầu cơ quan tố tụng khởi tố bị can đúng tội danh, nhưng sau đó lại chuyển sang tội danh khác.

Ví dụ: Biết bị hại có tiền, các bị cáo đã nảy sinh ý định rủ bị hại đánh bạc để chiếm đoạt tiền của bị hại; sau khi thống nhất hình thức xóc đĩa gian lận, các bị cáo đã chuẩn bị dụng cụ gồm 01 bộ chén đĩa có gắn camera, kết nối với điện thoại để biết kết quả chẵn, lẻ của từng lần chơi; quá trình đánh bạc, các bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của bị hại số tiền là 107 triệu đồng. Trong vụ án này, đánh bạc là phương thức, thủ đoạn để các bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền của bị hại, hành vi phạm tội của các bị cáo cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm truy cứu trách nhiệm hình sự các bị cáo về Tội đánh bạc là vi phạm nghiêm trọng việc áp dụng pháp luật. Do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đã điều tra, truy tố bị cáo về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015), nên Hội đồng giám đốc thẩm xét thấy không cần điều tra lại, mà chỉ cần xét xử sơ thẩm lại vụ án cho đúng tội danh theo quy định của pháp luật.

Kết án bị cáo về tội danh nặng hơn so với tính chất của hành vi khách quan: Việc kết án bị cáo về tội nặng hơn so với thực tế là bất lợi ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo. Nguyên nhân dẫn đến sai sót của cơ quan tố tụng trong các vụ án này là đánh giá thiếu toàn diện các yếu tố liên quan đến vụ án (như nguồn gốc tài sản bị thiệt hại, chiếm đoạt) dẫn đến xác định không đúng tội danh.

Xác định tình tiết định khung tăng nặng không đúng làm bất lợi cho bị cáo:

Xác định tình tiết định khung tăng nặng không đúng, làm bất lợi cho tình trạng của bị cáo là căn cứ có tính phổ biến để Hội đồng giám đốc thẩm tuyên hủy bản án, quyết định để xét xử sơ thẩm lại (phần lớn là các vụ án mua bán trái phép chất ma túy).

Ví dụ: Việc xác định không đúng tình tiết định khung tăng nặng trong các vụ án mua bán trái phép chất ma túy đều có điểm chung là bị cáo bị bắt quả tang 01 lần bán trái phép chất ma túy; quá trình khám xét đã thu giữ được khối lượng ma túy nhất định, bị cáo khai cất giữ số ma túy đó nhằm bán lại kiếm lời nhưng chưa giao dịch thì bị phát hiện, bắt giữ. Trong trường hợp này, cơ quan tố tụng chỉ được tính bị cáo có 01 lần mua bán trái phép chất ma túy, khối lượng ma túy đã bán và khối lượng ma túy thu giữ được cộng lại để xác định tình tiết định khung. Tuy nhiên, cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm đã cộng 01 lần mua bán trên thực tế và số lần mua bán trái phép chất ma túy sẽ xảy ra trong tương lai để xác định bị cáo phải chịu tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội từ 02 lần trở lên”. Đây là sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.

Đánh giá không đúng các chứng cứ, tài liệu của vụ án, dẫn đến tuyên bị cáo không phạm tội hoặc kết án bị cáo khác với khung hình phạt đã truy tố:

Đây là sai sót của Tòa án cấp sơ thẩm trong việc xem xét, đánh giá các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Ví dụ: Trong vụ án trộm cắp tài sản, bị cáo và các đồng phạm thực hiện hành vi cắt dây cáp điện thoại để bán lấy tiền tiêu xài. Trong số 13 bị cáo, có 03 bị cáo khai nhận về việc H cùng tham gia trộm cắp dây cáp điện thoại, nhưng khi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, Tòa án cho rằng thời gian mà các bị cáo xác định H thực hiện hành vi phạm tội khác với thời gian được xác định trong cáo trạng truy tố, nên không đủ cơ sở kết án đối với H và đã tuyên H không phạm tội trộm cắp tài sản. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm đã không đánh giá đầy đủ, khách quan, liền mạch các chứng cứ, tài liệu được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Trường hợp khác, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá không chính xác, không đầy đủ về đặc điểm nhân thân của bị cáo, không đầy đủ các tình tiết khách quan của vụ án, dẫn đến bỏ lọt các tình tiết định khung tăng nặng, kết án bị cáo nhẹ hơn khung hình phạt Viện kiểm sát truy tố.

Áp dụng loại hình phạt hoặc cho bị cáo hưởng án treo không đúng quy định:

Đây là loại vi phạm chiếm tỉ lệ đáng kể trong số vụ án bị Hội đồng giám đốc thẩm tuyên hủy bản án để xét xử sơ thẩm lại. Đặc điểm chung của các trường hợp này là Tòa án áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt tiền không đúng quy định của pháp luật hình sự, không đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, không đạt được mục đích răn đe, phòng ngừa của hình phạt.

Ví dụ: Bị cáo phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo điểm b khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 (có khung hình phạt từ 03 năm đến 10 năm tù, thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng), lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo. Tòa án xử phạt bị cáo 30 tháng cải tạo không giam giữ là vi phạm trong việc đánh giá tính chất của hành vi phạm tội, mức độ hậu quả, vi phạm nghiêm trọng khoản 1 Điều 36 BLHS năm 2015. Ngoài ra, còn có trường hợp, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, có nhân thân xấu, có nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, đã từng bị kết án về cùng loại tội, nhưng bị cáo vẫn được hưởng án treo.

Vi phạm quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng:

Đặc điểm chung của các vụ án bị hủy do vi phạm Điều 54 BLHS năm 2015 là: Tòa án xác định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không đúng quy định, bỏ sót tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, không đối trừ trong trường hợp bị cáo vừa có tình tiết tăng nặng vừa có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đánh giá không đúng tính chất của hành vi phạm tội và các tình tiết khách quan của vụ án, dẫn đến vi phạm điều kiện khi quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

Xử phạt bị cáo quá nhẹ, không đủ sức răn đe, không đáp ứng được yêu cầu chống và phòng ngừa tội phạm:

Quyết định hình phạt đối với bị cáo quá nhẹ là một trong những căn cứ có tính phổ biến để Hội đồng giám đốc thẩm tuyên hủy bản án để xét xử lại. Điểm chung của các vụ án này là: Tòa án đánh giá không đúng tính chất hành vi phạm tội, mức độ hậu quả, vai trò, đặc điểm nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, dẫn đến quyết định loại hình phạt hoặc mức hình phạt tù có thời hạn quá nhẹ, không đảm bảo mục đích răn đe, phòng ngừa của hình phạt.

Ví dụ: Trong vụ án cố ý gây thương tích, bị cáo dùng hung khí là gậy sắt vụt vào vùng đầu của bị hại, gây thương tích tỷ lệ 50%. Mặc dù đã được mọi người can ngăn, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện tội phạm đến cùng, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại điểm e khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 là thiếu sót, xử phạt bị cáo 24 tháng tù là quá nhẹ so với tính chất và mức độ hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

Ngoài ra, còn có các dạng vi phạm khác của Tòa án dẫn đến phải hủy bản án để xét xử lại liên quan đến: Xác định bị cáo có tiền án, quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án gây bất lợi cho bị cáo; xác định tư cách người tham gia tố tụng không đúng quy định, không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng, xác định trách nhiệm dân sự không đúng; xử lý vật chứng, tuyên án phí, miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo không có căn cứ pháp luật…

 

Tham khảo

– Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

– Tạp chí điện tử kiểm sát.

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Emailinfo.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

Tin tức liên quan