07

Th8

XỬ LÝ TRƯỜNG HỢP TỪ CHỐI HOẶC TRỐN TRÁNH NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG NUÔI CON SAU LY HÔN?

Ly hôn không chỉ là sự kết thúc của một cuộc hôn nhân mà còn là khởi đầu của nhiều thách thức pháp lý và tình cảm, đặc biệt liên quan đến nghĩa vụ cấp dưỡng cho con cái. Khi một bên từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, không chỉ khiến người còn lại phải gánh chịu nhiều khó khăn tài chính, mà quan trọng hơn, quyền lợi và sự phát triển của trẻ em bị đe dọa nghiêm trọng. Vậy, pháp luật quy định như thế nào để bảo vệ quyền lợi của trẻ em và xử lý những trường hợp vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng? Bài viết này sẽ làm rõ các quy định pháp lý và biện pháp chế tài nhằm đảm bảo việc thực thi nghĩa vụ cấp dưỡng sau ly hôn, mời các bạn cùng theo dõi.

1. Cấp dưỡng là gì và ai là người phải thực hiện việc cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn?

Theo Luật Hôn nhân và Gia đình, cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định.[1]

Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác.[2]

Như vậy, việc cấp dưỡng không chỉ áp dụng riêng giữa cha, mẹ và con cái mà còn áp dung với quan hệ ông, bà và cháu, giữa cô, cậu, dì, anh, chị, em với nhau.

Tuy nhiên, xét trong mối quan hệ hôn nhân, sau khi ly hôn thì cha, mẹ sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với: Con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình khi không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con. [3] Ngoài ra, giữa vợ và chồng sau khi ly hôn cũng tồn tại nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định, cụ thể: Khi ly hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình. [4]

2. Mức cấp dưỡng

Mức cấp dưỡng sau khi ly hôn không được quy định cố định trong pháp luật Việt Nam, mà thường được xác định dựa trên thỏa thuận giữa các bên hoặc do tòa án quyết định dựa trên các yếu tố cụ thể của từng trường hợp.

Theo Luật Hôn nhân và gia đình, Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. [5]

Về phương thức cấp dưỡng: [6]

Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Chế tài đối với trường hợp từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng sau ly hôn

a) Chế tài hành chính

Khi một người từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng sau khi ly hôn, pháp luật Việt Nam quy định một số chế tài hành chính để xử lý hành vi này, cụ thể:

Điều 57, Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình quy định về vi phạm quy định về chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng như sau:

“1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn; từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa anh, chị, em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu theo quy định của pháp luật;

b) Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng cha, mẹ; nghĩa vụ cấp dưỡng, chăm sóc con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.

Biện pháp khắc phục hậu quả:

Buộc thực hiện nghĩa vụ đóng góp, nuôi dưỡng theo quy định đối với các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này.”

b) Chế tài hình sự

Ngoài việc áp dụng chế tài hành chính thì hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng sau khi ly hôn còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đáp ứng đầu đủ các yếu tố cấu thành tội phạm về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng theo Điều 186 Bộ luật hình sự 2015, cụ thể:

“Điều 186. Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng

Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 380 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.

Như vậy, việc từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng sau khi ly hôn có thể được xử lý qua nhiều biện pháp khác nhau, bao gồm từ nhẹ nhất là xử lý hành chính cho đến nặng hơn là truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc áp dụng chế tài hình sự đối với hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng sau khi ly hôn là cần thiết nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người được cấp dưỡng, đồng thời duy trì tính nghiêm minh của pháp luật.

 

Cơ sở pháp lý:

[1] Khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

[2] Khoản 1 Điều 107 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

[3] Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

[4] Điều 115 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

[5] Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

[6] Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

Tin tức liên quan