28

Th6

QUYỀN IM LẶNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Trong hoạt động tố tụng hình sự, quyền im lặng là một trong những quyền dành cho bị can, bị cáo, người bị bắt, người bị tạm giữ. Theo đó, họ có quyền giữ im lặng để tránh tình trạng đưa ra những lời khai bất lợi hoặc tự buộc tội chính mình trước sự cáo buộc của cơ quan công quyền. Vậy, quyền im lặng được quy định như thế nào?

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Quyền im lặng không được quy định cụ thể trong luật, BLTTHS 2015 cũng không nêu khái niệm về “Quyền im lặng”, nhưng đã cụ thể hóa trong một số nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, cụ thể:

* Nguyên tắc “Suy đoán vô tội” (Điều 13 BLTTHS 2015):

“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.”

* Nguyên tắc “Xác định sự thật của vụ án” (Điều 15 BLTTHS 2015)

“Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội….”

* Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự” (Điều 16 BLTTHS 2015)

“Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.

Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này.”

Theo đó, Điều 74 BLTTHS 2015 quy định “Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ”.

Ngoài ra, Quyền im lặng được thể hiện ở tất cả các giai đoạn từ điều tra, truy tố cho đến xét xử. Cụ thể Điều 59 đến Điều 62 BLTTHS năm 2015 quy định quyền của người bị buộc tội (gồm: Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) được “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”.

Bên cạnh đó, BLTTHS 2015 còn quy định thêm những điều khoản để đảm bảo cho việc thực hiện quyền im lặng của người bị buộc tội. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 87 quy định về nguồn chứng cứ: “Những gì có thật, nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”. Khoản 6 Điều 183 quy định quy định thêm về hỏi cung bị can: “Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. Việc ghi âm, ghi hình này không chỉ nhằm bảo vệ quyền của bị can, mà còn bảo vệ phía cơ quan điều tra trước các khiếu nại, tố cáo. Trong trường hợp có bất kỳ sự cáo buộc nào về việc vi phạm quyền im lặng hoặc việc sử dụng nhục hình trong hoạt động lấy lời khai, thẩm phán có thể dựa vào các tệp hình ảnh, âm thanh này để đánh giá tính hợp pháp của lời khai.

Trên thực tế, quyền im lặng đã được vận dụng triệt để bởi người bị buộc tội. Điển hình như: Vụ án của hoa hậu Trương Hồ Phương Nga về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (16,5 tỷ) năm 2017. Tại phần thẩm vấn, khi trả lời câu hỏi của đại diện Viện kiểm sát, Phương Nga đã nói: “Bị cáo không có nghĩa vụ phải chứng minh tội trạng của bị cáo, nghĩa vụ này là của cơ quan công tố”, dù được Tòa giải thích nếu bị cáo từ chối việc tự bào chữa cho chính mình thì cũng là một cách tự gây thiệt hại. Tuy nhiên, trong suốt quá trình xét xử, Phương Nga vẫn kiên quyết sử dụng “Quyền im lặng” nhằm “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Hay trong vụ án của Bác sĩ Hoàng Công Lương về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” và “Vô ý làm chết người” xảy ra tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hoà Bình năm 2018. Trong phần xét hỏi, khi đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại toà tiến hành thẩm vấn, Bị cáo Lương trả lời: “Do bị Viện kiểm sát quy kết tội nên bị cáo xin được giữ quyền im lặng. Bị cáo uỷ quyền cho luật sư chứng minh bị cáo vô tội”.

Như vậy có thể thấy, sử dụng quyền im lặng là điều cần thiết cho người bị buộc tội nhằm bảo vệ người bị buộc tội tránh khỏi những lời khai bất lợi có thể đưa họ vào tình thế tự buộc tội chính mình trong quá trình bị thẩm vấn bởi cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, dưới góc độ của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, việc “im lặng” mang tính chất không khai báo, từ chối khai báo được xem là bất hợp tác, không thành khẩn, làm cho vụ án gặp nhiều khó khăn khi xét xử, đôi khi có thể gây bất lợi cho chính họ trong quá trình xử lý vụ án. Bởi lẽ, việc nhận tội của bị can, bị cáo được xem là tình tiết giảm nhẹ trong quyết định hình phạt đối với bị cáo. Do đó, cần phải hiểu rõ quyền im lặng không hoàn toàn đồng nghĩa với việc không khai báo bất cứ điều gì trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng. Mà quyền im lặng chỉ được thực hiện trong một giới hạn nhất định, tức là khi chưa có người bào chữa thì người bị buộc tội có quyền không khai báo bất kỳ điều gì liên quan đến vụ việc, vụ án. Hoặc trong trường hợp có sự chứng kiến của người bào chữa thì người bị buộc tội cũng không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội và người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trách nhiệm chứng minh tội phạm sẽ thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Nếu người bị buộc tội tự nguyện trình bày những tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội của bản thân hoặc tự nhận mình có tội thì cơ quan tiến hành tố tụng vẫn ghi nhận lời khai đó. Tuy nhiên, theo pháp luật tố tụng hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội và chỉ được dùng làm chứng cứ khi nó phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án (Khoản 2 Điều 98 BLTTHS 2015); Người bị buộc tội không phải chịu trách nhiệm hình sự vì lý do không khai báo và không khai báo cũng không bị coi là tình tiết làm tăng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 BLHS 2015, ngược lại khai báo thành khẩn lại được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (Khoản 6 Điều 1 BLHS sửa đổi 2017). Tuy nhiên, lời khai phải phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án, những lời khai mang tính chất gian dối thì bị can, bị cáo cũng không được hưởng tình tiết giảm nhẹ do thành khẩn khai báo.

Có thể thấy, quyền im lặng trong tố tụng hình sự không chỉ đơn thuần là quyền mà pháp luật trao cho người bị buộc tội được lựa chọn khai báo hoặc không khai báo trước cơ quan tiến hành tố tụng khi chưa đủ điều kiện về kiến thức pháp luật, thể chất, tinh thần trong quá trình đưa ra lời khai nhằm đảm bảo không gây bất lợi cho mình. Mà quyền im lặng còn bao gồm các quyền: được trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; quyền tự bào chữa, hoặc nhờ người khác bào chữa; và người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Do đó, về phía người bị buộc tội lẫn người bào chữa và các bên có thẩm quyền khác trong quá trình tố tụng cần có cái nhìn đúng đắn về quyền im lặng cũng như vận dụng đúng quyền im lặng để đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của người bị buộc tội, đồng thời hỗ trợ công tác điều tra, xét xử được thuận lợi.

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Email: info.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

 

Tin tức liên quan