03

Th6

TỔNG HỢP BẢN ÁN VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

STT Số hiệu bản án TÊN VÀ NỘI DUNG BẢN ÁN

File Bản án đính kèm

1.     Bản án số 178/2023/DS-PT ngày 19/4/2023 của TAND TP. Hà Nội  

Bản án số 178/2023/DS-PT ngày 19/4/2023 của TAND TP. Hà Nội về Tranh chấp Hợp đồng thanh lý, Hợp đồng thuê nhà

 Thông tin chung

– Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

– Cấp xét xử: Phúc thẩm

– Loại vụ/việc: Dân sự

– Tòa án xét xử: TAND TP. Hà Nội

– Áp dụng án lệ: Không

– Thông tin về vụ/việc: Ngày 19 tháng 4 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 118/2022/TLPT-DS ngày 5/4/2022 về việc “Tranh chấp Hợp đồng thanh lý, Hợp đồng thuê nhà”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 89/2021/DS-ST ngày 16/12/2021 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ngày 01/11/2018, ông Hà Ngọc Phúc ký hợp đồng thuê nhà với bà Đàm Thu Dung, theo đó bà Dung cho ông Phúc thuê căn nhà tại địa chỉ số 47 Nguyễn Đổng Chi, tổ 18, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội với mục đích thuê để kinh doanh khách sạn, thời hạn thuê là 10 năm kể từ ngày 01/11/2018. Sau khi ký hợp đồng và nhận nhà, ông đã sửa chữa, cải tạo, nâng cấp ngôi nhà hết khoảng 1.550.000.000đ. Về nội dung hợp đồng thuê nhà hai bên đã ký kết, đến nay anh không có ý kiến gì.

Ngày 05/01/2020, bà Dung đến thông báo cho ông Phúc là đã bán căn nhà ông đang thuê cho bà Trần Thị Khuyên  ủy quyền cho ông Nguyễn Minh Đức ký. Đồng thời bà Dung nhờ ông Phúc ký giúp biên bản thanh lý hợp đồng thuê nhà để thuận tiện cho việc làm thủ tục chuyển nhượng căn nhà trên tại cơ quan Nhà nước. Trong lúc ký kết biên bản thanh lý, bà Dung nói việc ký kết chỉ là hình thức và sẽ đảm bảo cho ông được tiếp tục thuê nhà. Ông khẳng định có việc hai bên ký thanh lý hợp đồng thuê nhà nhưng do tin tưởng bà Dung nên mới ký.

Tuy nhiên, đến ngày 07/01/2020, ông Đức đã đến đòi nhà và yêu cầu ra khỏi nhà ngay lập tức hoặc muộn nhất là một tuần. Ông Phúc gọi điện cho bà Dung, được bà trả lời để cô nói với người ta vì giữa hai bên mua bán đã có thỏa thuận với nhau từ trước là ông vẫn tiếp tục được thuê. Ngày 08/01/2020, ông gọi điện lại cho bà Dung thì nhận được câu trả lời là việc thanh lý hợp đồng đã xong, cháu tự làm việc với anh Đức, cứ theo giấy trắng mực đen mà làm và dập máy ngay.

Việc bà Đàm Thu Dung đưa ra thông tin gian dối để ông ký biên bản thanh lý hợp đồng thuê nhà ông đang thuê đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của ông, mọi hoạt động kinh doanh đã phải dừng từ ngày 05/01/2020, thiệt hại mỗi tháng mất thu nhập khoảng 70.000.000đ. Sau rất nhiều lần gọi điện, trao đổi thì bà Dung vẫn kiên quyết không trả bất kỳ khoản tiền bồi thường nào cho việc ông đã đầu tư vào ngôi nhà và ông Nguyễn Minh Đức cũng không ký hợp đồng thuê nhà mới với ông. Ngoài ra, ông Đức cùng nhiều đối tượng khác đã đến quấy rối để yêu cầu ông ra khỏi căn nhà. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục quản lý sử dụng cho đến khi giải quyết xong vụ án.

Ông khởi kiện yêu cầu bà Dung phải bồi thường cho ông toàn bộ chi phí đầu tư và mua sắm tài sản đầu tư vào ngôi nhà là 1.550.000.000đ. Bồi thường do không kinh doanh được từ 05/01/2020 đến khi vụ việc được giải quyết xong mỗi tháng là 70.000.000đ.

Bà Khuyên có đơn yêu cầu độc lập đề ngày 06/10/2020 với nội dung đề nghị Tòa án buộc ông Phúc phải trả cho bà toàn bộ nhà, đất tại số nhà 47, đường Nguyễn Đổng Chi, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội cho bà Khuyên, giá trị tài sản bà yêu cầu chuyển dịch khoảng 1.000.000.000đ.  Việc giải quyết hậu quả của việc thanh lý hợp đồng trước hạn giữa bà Dung với anh Phúc thế nào bà Khuyên không liên quan, đề nghị Tòa xem xét.

Toà án sơ thẩm tuyên: 

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Phúc đối với bà Đàm Thị Sinh (Đàm Thu Dung). Buộc bà Đàm Thị Sinh (Đàm Thu Dung) phải trả cho anh Phúc một phần giá trị tài sản anh Phúc đã đầu tư mua sắm vào ngôi nhà tại số 47 Nguyễn Đổng Chi, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội đến nay không tháo dỡ được với số tiền là 185.594.400đ.

2. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Sinh (Dung) không tự nguyện thi hành số tiền trên thì hàng tháng phải chịu lãi suất theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS.

3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện bổ sung về việc tuyên bố biên bản thanh lý hợp đồng thuê nhà ngày 01/01/2020 vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.

4. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Trần Thị Khuyên. Buộc anh Hà Ngọc Phúc phải dịch chuyển toàn bộ tài sản của anh đã đầu tư mua sắm để trả cho bà Trần Thị Khuyên toàn bộ nhà, đất tại số 47, đường Nguyễn Đổng Chi, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, thuộc thửa đất số 150, tờ bản đồ 38.

Nhận định của Tòa Phúc Thẩm

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:

Về hình thức: Đơn kháng cáo của nguyên đơn cũng là đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ phần Thương mại và Đầu tư khách sạn Kim Cương ông Hà Ngọc Phúc; đơn kháng cáo của ông Trần Dũng Tiến là đại diện theo ủy quyền của bị đơn và cũng là đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Trường Xuân Hòa nộp trong hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo, về hình thức là hợp lệ.

Về nội dung:

Ngày 01/11/2018 ông Hà Ngọc Phúc ký hợp đồng thuê ngôi nhà 04 tầng,

01 tum tại địa chỉ số 47 Nguyễn Đổng Chi, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội của bà Đàm Thị Sinh (tên gọi khác Đàm Thu Dung) để kinh doanh nhà nghỉ. Đến ngày 31/12/2019 bà Đàm Thu Dung và ông Trương Xuân

Hòa (chồng bà Dung) ký hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ nhà, đất cho bà Trần Thị Khuyên. Hợp đồng có công chứng chứng thực tại Văn phòng công chứng Đông Đô, Thành phố Hà Nội, số công chứng 12930.2019/HĐCN; Quyển số 04TP/CC-SCC/HĐGD.

Ngày 01/01/2020 ông Phúc, bà Dung đã cùng ký biên bản thanh lý hợp đồng thuê nhà. Nội dung biên bản thanh lý ghi rõ: Hai bên cùng nhau ký thanh lý hợp đồng thuê nhà đã ký kết vào ngày 01/11/2018, ngôi nhà tại số 47 Nguyễn Đổng Chi, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. Kể từ ngày ký hợp đồng thanh lý này giữa hai bên không còn vướng mắc gì về quyền, nghĩa vụ tài chính gì liên quan. Theo ông Phúc khai thì ông biết bà Dung thông báo bán nhà, biết việc vợ chồng bà Dung ký hợp đồng bán nhà, đất cho bà Khuyên đã công chứng xong, ký trước khi ông ký hợp đồng thanh lý. Lý do ông ký hợp đồng thanh lý mà không có bất kỳ yêu cầu gì đối với bà Dung trong khi thời hạn thuê nhà vẫn còn 9 năm là do trước khi ký hợp đồng thanh lý, bà Dung nói cam kết, bà Khuyên, ông Đức sẽ tiếp tục cho ông thuê nhà. Ông Đức phủ nhận nội dung này. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Phúc xuất trình bản ghi âm cuộc nói chuyện giữa bà Dung và ông Đức nhưng cũng không thể hiện rõ nội dung bà Khuyên do ông Đức đại diện đồng ý cho ông Phúc tiếp tục thuê nhà.

Như vậy, vợ chồng bà Dung và bà Khuyên có ký hợp đồng mua bán nhà đất tại số 47 Nguyễn Đổng Chi, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội; hai bên đã thanh toán đủ tiền chuyển nhượng theo hợp đồng đã ký kết. Trên thực tế bên bán nhà là vợ chồng bà Dung chưa bàn giao nhà đất chuyển nhượng cho bà Khuyên. Bên mua nhà là bà Khuyên chưa được bên bán là vợ chồng bà Dung bàn giao nhà đất đã chuyển nhượng. Người thực tế quản lý nhà là ông Phúc.

Xem xét, Biên bản thanh lý hợp đồng thuê nhà ngày 01/01/2020 giữa vợ chồng bà Dung và ông Phúc nhận thấy. Việc ông Phúc ký Biên bản thanh lý hợp đồng thuê nhà là tự nguyện, không bị ép buộc nên có hiệu lực thi hành.       Nội dung hợp đồng có ghi: Kể từ ngày ký hợp đồng thanh lý này giữa hai bên không còn vướng mắc gì về quyền, nghĩa vụ tài chính gì liên quan, nhưng trên thực tế thì bà Dung mới chỉ trả lại ông Phúc 20.000.000 đồng tiền đặt cọc thuê nhà, hai bên không có thỏa thuận về giá trị tài sản ông Phúc đã đầu tư nâng cấp, cải tạo nhà đất từ nhà ở thành khách sạn để kinh doanh và bà Dung cũng không được ông Phúc bàn giao nhà trên thực tế. Như vậy, việc thanh lý hợp đồng thuê nhà chưa được thực hiện trên thực tế.

Nội dung hợp đồng thuê nhà giữa anh Phúc với bà Dung không có điều khoản quy định việc thanh lý hợp đồng thuê nhà trước hạn thì giải quyết hậu quả thế nào.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 478, Khoản 2 Điều 479 BLDS 2015 thì Bên cho thuê phải đảm bảo quyền sử dụng tài sản ổn định cho bên thuê; Bên thuê có thể tu sửa và làm tăng giá trị tài sản thuê nếu được bên cho thuê đồng ý và có quyền yêu cầu bên cho thuê thanh toán chi phí hợp lý.

Nhận thấy, việc ông Phúc thuê nhà của bà Dung để kinh doanh khách sạn thì việc phải sửa chữa, thay đổi công năng sử dụng là bắt buộc, bà Dung biết việc sửa chữa này, không có phản đối gì nên được coi là đồng ý cho ông Phúc sửa chữa để phục vụ cho việc kinh doanh. Do đó, mặc dù trong hợp đồng thuê không có thỏa thuận việc thanh lý hợp đồng thuê nhà trước hạn thì bên thuê nhà vẫn có quyền yêu cầu bên cho thuê thanh toán chi phí hợp lý cho việc sửa chữa, tôn tạo nhà đất thuê.

Bản án sơ thẩm nhận định: Tại hợp đồng thuê nhà được ký kết giữa bà Dung với anh Phúc có nội dung ghi rõ mục đích thuê để kinh doanh, thời hạn thuê là 10 năm, bà Dung cũng biết anh Phúc thuê để kinh doanh nhà nghỉ. Để chuyển công năng từ nhà ở sang kinh doanh nhà nghỉ cần phải đầu tư cải tạo, sửa chữa, mua sắm tài sản vật dụng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh trong 10 năm thì chi phí sẽ không nhỏ, đến khi thanh lý hợp đồng, anh Phúc mới khai thác được một năm. Do anh Phúc tự nguyện thanh lý hợp đồng mà không yêu cầu bà Dung phải bồi thường nên anh Phúc phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Nhưng khi tháo dỡ sẽ có rất nhiều tài sản sắn liền với ngôi nhà trước khi bà Dung chuyển nhượng cho bà Khuyên mà nếu tháo dỡ sẽ mất giá trị sử dụng hoặc không thể tháo dỡ được như các hạng mục và tài sản: Lợp mái vẩy tầng 1, lợp tôn tầng 5, dựng vách gỗ đầu giường, cải tạo nhà vệ sinh, chiếu nghỉ, ốp trần, bệ xí, vòi xịt, gương soi, labô, đèn ốp trần, mặt đá, kính bồn vệ sinh, hàng rào sắt, cửa sắt, thay cửa và phụ kiện cửa ra vào…  Theo kết quả định giá những tài sản này trị giá là 206.216.000đ. Anh Phúc đầu tư dự kiến khai thác trong 10 năm, mới sử dụng một năm nên trừ đi 10% trên tổng giá trị. Buộc bà Đàm Thị Sinh (Đàm Thu Dung) phải trả cho anh Phúc một phần giá trị tài sản anh Phúc đã đầu tư mua sắm vào ngôi nhà tại số 47 Nguyễn Đổng Chi, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội đến nay không tháo dỡ được với số tiền là 185.594.400đ là chưa phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 479 BLDS 2015; không phù hợp với thực tế hạng mục công trình ông Phúc đã sửa chữa, tôn tạo vì còn một số hạng mục không định giá được.

Ông Phúc xuất trình các tài liệu về chi phí cho việc sửa chữa nhà 47 Nguyễn Đổng Chi. Tuy nhiên, bà Dung không xác nhận các chi phí này và hai bên cũng không có thỏa thuận cụ thể về hạng mục sửa chữa và chi phí sửa chữa nên cần tính toán chi phí hợp lý để sửa chữa nhà như hiện trạng. Tại Tòa án cấp sơ thẩm ông Phúc có yêu cầu định giá thêm một số hạng mục nhưng HĐXX không cho định giá là chưa đảm bảo quyền lợi của đương sự. Theo yêu cầu của nguyên đơn ông Phúc, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã tiến hành định giá lại tài sản tranh chấp. Theo đó: Trên đất có nhà bê tông cốt thép 04 tầng 01 tum. Hiện trạng nhà: Tường, nền, sân, mái đều không có vết nứt, không có hiện tượng thấm dột, móng không có hiện tượng sụt lún. Toàn bộ căn nhà được sơn bả hoàn thiện sạch sẽ, đang được sử dụng ổn định. Cụ thể:

Tầng 1: Có sân, phòng khách lễ tân và 01 phòng ngủ.

Tầng 2, 3, 4: Mỗi tầng có 02 phòng ngủ khép kín, có nhà vệ sinh bên trong.

Vận dụng đơn giá nhà cao 4-5 tầng, nhà mái bằng bê tông cốt thép là

5.931.000đ/m2 sàn xây dựng.

Tỷ lệ chất lượng còn lại được xác định theo hai phương pháp:

+ Phương pháp thống kê kinh nghiệm: Niên hạn sử dụng công trình là 50 năm, tỷ lệ chất lượng còn lại là 60%.

Thành tiền: 5.931.000đ/m2 x 60% x 72m2 x 4 tầng = 1.024.876.800đ

+ Phương pháp phân tích kỹ thuật: Theo đánh giá hiện trạng, khảo sát thực tế xác định tỷ lệ chất lượng còn lại của từng loại kết cấu nhà như sau:

Móng – tỷ lệ chất lượng còn lại là 85%

Khung cột – tỷ lệ chất lượng còn lại là 85%

Tường – tỷ lệ chất lượng còn lại là 82%

Nền sàn – tỷ lệ chất lượng còn lại là 80%

Kết cấu đỡ mái – tỷ lệ chất lượng còn lại là 81%

Mái – tỷ lệ chất lượng còn lại là 81%

Tỷ lệ chất lượng còn lại của cả ngôi nhà được xác định theo phương pháp phân tích kỹ thuật là:

((8% x 85%) + (10% x 85%) + (12% x 82%) + (16% x 80%) + (12% x81%) + (5% x 81%)) / (8% + 10% + 12% + 16% + 12% + 5%) = 82,08%

Thành tiền: 5.931.000đ/m2 x 82,08% x 72m2 x 4 tầng = 1.402.031.462đ  – Tầng tum: Gồm 02 phòng đang sửa chữa, cải tạo hiện chưa xây dựng xong. Vận dụng 70% đơn giá nhà tạm tường xây gạch cao dưới 3m, nền gạch chỉ có khu phụ, mái tôn là 1.725.000đ/m2 sàn xây dựng. Tỷ lệ chất lượng 100%. Thành tiền: 70% x 1.725.000đ/m2 x 100% x 72m2 = 86.940.000đ

Cổng sắt ở phần sân trước xây dựng năm 2019. Vận dụng đơn giá hoa sắt là 527.000đ/m2. Tỷ lệ chất lượng còn lại là 50%. Thành tiền: 2,2m x 2,4m x 527.000đ/m2 x 50% = 1.391.280đ

Phần sân gạch chỉ 30×30: Vận dụng đơn giá gạch đất nung đỏ 30×30 là 281.000đ/m2. Tỷ lệ chất lượng còn lại là 50%. Thành tiền: 2,4m x 3,3m x 281.000đ/m2 x 50% = 1.112.760đ

Phần mái che bằng tôn: Đơn giá: 443.000đ. Tỷ lệ chất lượng còn lại là 50%. Thành tiền: 2,4m x 3,3m x 443.000đ/m2 x 50% = 1.754.280đ

Phần trụ cổng và hàng rào: Vận dụng đơn giá tường gạch 220 là 4.816.000d/m3. Tỷ lệ chất lượng còn lại là 50%. Thành tiền: 1,45m x 1,7m x 4.816.000đ/m3 x 50% = 5.935.720đ  Tổng là: 1.499.165.502 đồng.

Như vậy, nếu theo niên hạn sử dụng công trình là 50 năm, tỷ lệ chất lượng còn lại là 60%. Giá trị tài sản trên đất là 1.024.876.800đ. Do có sự tôn tạo, sửa chữa của ông Phúc giá trị tài sản trên đất là 1.499.165.502 đồng. Chênh lệch giữa giá trị nhà theo niên hạn sử dụng và giá trị nhà tính theo phương pháp phân tích kỹ thuật là giá trị đầu tư do ông Phúc bỏ ra để sửa chữa tôn tạo. 1.499.165.502 đồng –  1.024.876.800 đồng = 474.288.702 đồng.

Ông Phúc yêu cầu được xem xét đối với việc xây dựng thêm phòng vệ sinh tại tầng 2,3,4 và một số tài sản gắn tường khác. Tuy nhiên, toàn bộ các hạng mục trên đều đã được Hội đồng định giá xem xét theo đúng quy định tại Điều 9 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 25/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hối đất; Quyết định 18/2019/QĐ-UBND ngày 14/10/2019 của UBND Thành phố Hà Nội về việc ban hành giá dựng mới nhà ở, nhà tạm,vật kiến trúc làm cơ sở xác định giá trị bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.

Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Phúc thay đổi yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu bị đơn thanh toán chi phí hợp lý sửa chữa nhà theo giá của Hội đồng định giá tại cấp phúc thẩm. Do đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phúc, buộc bà Dung phải thanh toán cho ông Phúc số tiền chi phí hợp lý ông Phúc đã sửa chữa tôn tạo nhà là 474.288.702 đồng.

Đối với yêu cầu bồi thường do thu nhập bị mất ông Phúc có đơn xin rút yêu cầu khởi kiện nên HĐXX đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này.

Đối với yêu cầu Tòa án tuyên Biên bản thanh lý hợp đồng thuê nhà ngày 01/01/2020 là vô hiệu do giả tạo. Như phân tích trên, Biên bản thanh lý hợp đồng thuê nhà ngày 01/01/2020 được các bên ký kết trên cơ sở tự nguyện, không bị lừa dối hay ép buộc. Việc ông Phúc nghĩ bà Khuyên sẽ tiếp tục cho ông thuê tiếp nên ông đã ký biên bản thanh lý là do suy nghĩ, suy luận chủ quan và quá tin tưởng của ông Phúc. Các bên chưa thực hiện đầy đủ việc thanh lý hợp đồng thì cần buộc thực hiện như phân tích trên nên không chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.

Nguyên đơn yêu cầu được nhận đủ tiền do bà Dung thanh toán mới bàn giao nhà cho bà Dung. Nhận thấy, tranh chấp này phát sinh trên cơ sở hợp đồng thuê nhà và biên bản thanh lý hợp đồng thuê nhà do đó các bên cùng phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người cho thuê nhà và người thuê nhà. Để được nhận lại nhà cho thuê bà Dung phải có nghĩa vụ thanh toán chi phí sửa chữa tôn tạo nhà cho ông Phúc và ông Phúc phải có nghĩa vụ bàn giao lại nhà thuê cho bà Dung ngay sau khi nhận đủ số tiền bà Dung phải thanh toán, yêu cầu này của nguyên đơn là phù hợp.

Đối với yêu cầu độc lập của bà Khuyên nhận thấy: Nhà đất tại số 47 Nguyễn Đổng Chi, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội thuộc quyền sở hữu, sử dụng của vợ chồng bà Dung. Vợ chồng bà Dung ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất cho bà Khuyên thì vợ chồng bà Dung phải có trách nhiệm bàn giao nhà đất chuyển nhượng cho người mua nhà là bà Khuyên. Ông Phúc là người thuê nhà của vợ chồng bà Dung nên phải trả lại nhà cho vợ chồng bà Dung. Bà Dung và ông Phúc có ký biên bản thanh lý hợp đồng thuê nhà nhưng ông Phúc chưa bàn giao lại nhà cho bà Dung trên thực tế. Giữa ông Phúc và bà Khuyên không có giao kết, thỏa thuận dân sự nào nên việc bà Khuyên có yêu cầu độc lập buộc ông Phúc phải bàn giao nhà cho bà là không có căn cứ chấp nhận. Mặt khác, bà Khuyên cũng chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp GCN đối với nhà đất nhận chuyển nhượng. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Khuyên buộc ông Phúc bàn giao nhà cho bà Khuyên là không phù hợp. Bà Khuyên đã thanh toán tiền mua nhà cho vợ chồng bà Dung thì cần yêu cầu vợ chồng bà Dung bàn giao nhà, nếu các bên không thỏa thuận được thì bà Khuyên có quyền khởi kiện vụ án dân sự khác. Do đó, sửa án sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện độc lập của bà Khuyên.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phù hợp với nhận định của HĐXX.

Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Phúc.

Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Dung.

Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện bồi thường do không kinh doanh được của nguyên đơn.

Toà án phúc thẩm tuyên:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Hà Ngọc Phúc đối với bà Đàm Thị Sinh (Đàm Thu Dung). Buộc bà Đàm Thị Sinh (Đàm Thu Dung) phải trả cho ông Phúc một phần giá trị tài sản ông Phúc đã đầu tư sửa chữa vào ngôi nhà tại số 47 Nguyễn Đổng Chi, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội đến nay không tháo dỡ được với số tiền là 474.288.702 đồng.

– Ông Hà Ngọc Phúc phải bàn giao nhà 47 Nguyễn Đổng Chi, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội cho bà Sinh (Dung) ngay khi được thanh toán đầy đủ số tiền trên.

– Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc tuyên bố Biên bản thanh lý hợp đồng thuê nhà ngày 01/01/2020 vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.

– Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện bồi thường do không kinh doanh được của nguyên đơn.

2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Trần Thị Khuyên về việc buộc ông Hà Ngọc Phúc phải dịch chuyển toàn bộ tài sản của ông Phúc đã đầu tư mua sắm để trả cho bà Trần Thị Khuyên toàn bộ nhà, đất tại số 47, đường Nguyễn Đổng Chi, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, thuộc thửa đất số 150, tờ bản đồ 38.

Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật dân sự năm 2015: Điều 468; 116, 117, 119, 166, 427, 472; 477; 478; 479, 482

– Bộ luật tố tụng dân sự 2015: Khoản 2 Điều 308;  Khoản 1 Điều 478, Khoản 2 Điều 479

– Luật Thi hành án Dân sự: Điều 2, 6,7,9 và Điều 30

– Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Điều 26, Điều 29

– Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 25/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hối đất: Điều 9 .

 1. Bản án số 178-2023-DS-PT ngày 19.04.2023 của TAND TP. Hà Nội – Tranh chấp Hợp đồng thanh lý, hợp đồng thuê nhà_
2.     Bản án số 136/2023/DS-PT Ngày 27/03/2023 của TAND tỉnh Đắk Lắk  

Bản án số 136/2023/DS-PT Ngày 27/03/2023 của TAND tỉnh Đắk Lắk về Tranh chấp hợp đồng thuê nhà và bồi thường thiệt hại

Thông tin chung

– Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

– Cấp xét xử: Phúc thẩm

– Loại vụ/việc: Dân sự

– Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk

– Áp dụng án lệ: Không

– Thông tin về vụ/việc: Bà Phạm Thị Thúy T khởi kiện đối với bà Lê Thị Thu A và ông Từ Ngọc T1, về tranh chấp hợp đồng thuê nhà và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Tóm tắt nội dung vụ án:

Vào ngày 25/4/2018, bà Phạm Thị Thúy T và vợ chồng ông Từ Ngọc T1, bà Lê Thị Thu A đã ký Hợp đồng thuê nhà, với nội dung: Vợ chồng ông T1, bà A cho bà T thuê căn nhà của bà Lê Thị Thu A tại đường H, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; thời hạn thuê là 05 năm, kể từ ngày 25/5/2018 đến ngày 25/5/2023, hai bên thống nhất thời gian thuê thực tế là ngày 17/06/2018, vì bên thuê phải cải tạo, sửa chữa lại căn nhà để phù hợp với đặc thù kinh doanh nên  không tính tiền thuê nhà từ ngày 02/5/2018 đến ngày 17/06/2018; bà T đặt cọc tài sản là 05 chỉ vàng SJC; giá thuê nhà trong 03 năm đầu tiên là 16.000.000 đồng/tháng, từ năm thứ 4 và thứ 5 giá thuê là 17.600.000 đồng/tháng; hợp đồng thỏa thuận các kỳ thanh toán tiếp theo chậm nhất sẽ là 05 ngày đầu kỳ của kỳ tiếp theo (tức là kết thúc ngày 22/6 hàng năm); Hợp đồng thuê nhà do ông T1, bà A soạn thảo để các bên thống nhất cùng ký tên, nhưng không thực hiện công chứng, chứng thực.

Quá trình thực hiện hợp đồng thuê nhà, bà T đã thanh toán đầy đủ tiền thuê nhà của 03 năm đầu cho vợ chồng ông T1, bà A. Tuy nhiên, ngày 22/06/2021, bên cho thuê là ông T1, bà A đã đơn phương chấm dứt hợp đồng.

Do dịch Covid nên bà T đề nghị với phía vợ chồng ông T1 xem xét giảm tiền thuê nhà, nhưng ông T1 đã đưa người đến xâm phạm địa điểm kinh doanh, đồng thời đập phá dụng cụ, ném đồ đạc nhằm ngăn cản không cho bà T tiếp tục thuê nhà. Việc làm của vợ chồng ông T1 đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc kinh doanh và danh dự, uy tín của bà T. Sau sự việc xảy ra như trên, bên cho thuê là ông T1 đã yêu cầu các cơ quan cung cấp điện, nước ngừng cung cấp điện, nước tại địa điểm cho thuê, dẫn đến cửa chính của nhà dùng bằng điện không mở được và bà T không thể tiếp tục hoạt động kinh doanh được. Bà T đã nhiều lần viết thư, gửi yêu cầu đến vợ chồng ông T1, bà A yêu cầu thỏa thuận, giải quyết và khắc phục hậu quả nhưng phía vợ chồng ông T1, bà A không hợp tác. Đến khoảng ngày 15/7/2021, do không có điện, nước để phục vụ sinh hoạt và kinh doanh nên bà T đã chuyển đi nơi khác ở và không sử dụng căn nhà đã thuê nữa. Vợ chồng ông T1 cũng đã quản lý căn nhà từ đó đến nay.

Do bên cho thuê nhà là ông Từ Ngọc T1, bà Lê Thị Thu A đã vi phạm hợp đồng thuê, gây thiệt hại cho bên thuê nhà, nên bà Phạm Thị Thúy T khởi kiện yêu cầu bị đơn ông Từ Ngọc T1, bà Lê Thị Thu A phải trả cho nguyên đơn các khoản, gồm: Số tiền 678.000.000 đồng, là tiền chi phí xây dựng, sửa chữa căn nhà (Ngăn phòng bằng thạch cao; đóng trần thạch cao tầng trệt; làm lại 02 nhà vệ sinh và bếp; sơn tường và dán lại giấy dán tường; đi lại hệ thống điện nước và lắp đặt hệ thống đèn; lót sàn gỗ); số tài sản đặt cọc khi ký hợp đồng là 05 chỉ vàng và khoản tiền 03 năm thuê nhà đã thanh toán xong là 571.000.000 đồng. Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, bà T có yêu cầu buộc ông T1, bà A phải bồi thường thêm số tiền 100.000.000 đồng, do vi phạm hợp đồng và chi phí mất việc làm cho 10 nhân viên.

Ông T1 cho rằng bà T có yêu cầu giảm tiền thuê nhưng ông T1 không đồng ý. Ngày 22/6/2021, Bà T có nhắn tin cho Ông T1  đến nhà để thanh toán tiền thuê nhà, nhưng khi ông vừa bước vào nhà thì bị bà T chửi bới, đồng thời có một số thanh niên (khoảng 4 – 5 người) lao vào đánh ông T1 tới tấp, làm cho ông T1 bị thương tích 6%. Về việc ông T1 bị đánh gây thương tích thì hiện nay đã có đơn trình báo gửi đến cơ quan Công an yêu cầu giải quyết theo quy định, nên phía bị đơn không yêu cầu Tòa án xem xét. Do Nguyên đơn là người vi phạm hợp đồng thuê nhà, nên bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Thúy T. Đồng thời, bị đơn ông Từ Ngọc T1 và bà Lê Thị Thu A có đơn yêu cầu kiện phản tố, buộc bà Phạm Thị Thúy T phải tiếp tục thanh toán tiền thuê nhà từ ngày 17/6/2021 đến thời điểm xét xử, tiền thuê nhà là 17.600.000 đồng/tháng, hủy hợp đồng thuê nhà và buộc giao nhà cho vợ chồng ông T.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Phạm Thị Thúy T chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn ông Từ Ngọc T1 và bà Lê Thị Thu A phải trả lại chi phí đã xây dựng, sửa chữa nhà thuê là 678.000.000 đồng và 05 chỉ vàng SJC đã đặt cọc. Đối với yêu cầu trả lại tiền thuê nhà đã thanh toán là 571.000.000 đồng và yêu cầu bồi thường thêm số tiền 100.000.000 đồng, thì bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn ông Từ Ngọc T1 và bà Lê Thị Thu A, thì bà T không đồng ý; bà T chấp nhận việc chấm dứt hợp đồng thuê nhà và chỉ đồng ý trả tiền thuê nhà 01 tháng đã ở kể từ ngày 17/6/2021 đến ngày 15/7/2021, số tiền là 17.600.000 đồng.

Toà án sơ thẩm tuyên: 

1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với việc yêu cầu bị đơn phải trả lại 03 năm tiền thuê nhà đã thanh toán là 571.000.000 đồng.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải trả lại cho nguyên đơn 05 chỉ vàng SJC đặt cọc và 289.400.000 đồng (giá trị sửa chữa nhà còn lại).

3. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn:

– Buộc nguyên đơn phải thanh toán cho bị đơn 17.600.000 đồng giá trị tiền thuê nhà từ ngày 17/6/2021 đến ngày 15/7/2021.

– Hủy hợp đồng thuê nhà ngày 25/4/2018 giữa nguyên đơn và bị đơn. Bị đơn toàn quyền sử dụng các tài sản và vật kiến trúc gắn liền với căn nhà địa chỉ đường H, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk theo kết quả định giá.

4. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nội dung buộc nguyên đơn phải trả 246.400.000 đồng tiền thuê nhà.

Nhận định của Tòa Phúc Thẩm

[1] Theo Hợp đồng thuê nhà ngày 25/4/2018, thì bà Phạm Thị Thúy T thuê căn nhà đường H, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk của ông Từ Ngọc T1 và bà Lê Thị Thu A; thời hạn thuê là 05 năm, thời gian thuê thực tế là từ ngày 17/06/2018; bà T đặt cọc tài sản là 05 chỉ vàng SJC; giá thuê nhà trong 03 năm đầu tiên là 16.000.000 đồng/tháng, từ năm thứ 4 và thứ 5 giá thuê là 17.600.000 đồng/tháng; hợp đồng thỏa thuận các kỳ thanh toán tiếp theo chậm nhất sẽ là 05 ngày đầu kỳ của kỳ tiếp theo (tức là kết thúc ngày 22/6 hàng năm).

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và Phạm Thị Thúy T:

[2.1] Quá trình thực hiện hợp đồng thuê nhà, bà T đã thanh toán tiền thuê nhà của 03 năm đầu cho vợ chồng ông T1, bà A. Tuy nhiên, đến kỳ thanh toán tiền thuê của năm thứ 4, thời điểm này tình hình dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp, cả nước và địa bàn thành phố B đang thực hiện giãn cách xã hội để phòng chống dịch, việc làm ăn, kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nên bà T có trao đổi với vợ chồng ông T1 để thương lượng giảm hoặc giữ nguyên giá thuê nhà, nhưng phía vợ chồng ông T1 không đồng ý và hai bên có nhắn tin qua lại và có lời nói xúc phạm nhau. Theo thỏa thuận trong hợp đồng thì đến hết ngày 22/6/2021 mới kết thúc thời hạn 05 ngày đầu của kỳ thanh toán tiền thuê tiếp theo và nếu bên thuê nhà không thanh toán, thì bên cho thuê có quyền khởi kiện và yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo thỏa thuận trong hợp đồng và quy định của pháp luật. Tuy nhiên vào lúc 21 giờ 33 phút ngày 22/6/2021, khi chưa hết thời hạn thanh toán của kỳ thuê nhà tiếp theo, ông T1 đã đến căn nhà cho thuê, sau đó hai bên xảy ra mâu thuẫn, cãi cọ và xô sát nhau, dẫn đến phát sinh tranh chấp. Đồng thời bị đơn có gọi điện thoại đến cơ quan cung cấp điện yêu cầu ngắt điện của địa điểm thuê và đến ngày 22/7/2021, bị đơn có làm đơn yêu cầu cắt nước sinh hoạt gửi đến công ty cung cấp nước, mục đích để buộc bên thuê nhà phải thanh toán tiền thuê. Do có tranh chấp và bị cắt điện, nước nên không kinh doanh, sinh hoạt tại địa điểm thuê được, do đó bà T đã chuyển đi nơi khác ở và hiện nay vợ chồng ông T1, bà A cũng đã quản lý căn nhà cho thuê. Như vậy, việc hai bên có tranh chấp và dẫn đến chấm dứt hợp đồng thuê nhà là do lỗi của bị đơn, nên ý kiến của bị đơn cho rằng nguyên đơn bà Phạm Thị Thúy T đơn phương chấm dứt hợp đồng, là không có căn cứ và không đúng. Đối với tài sản đặt cọc là 05 chỉ vàng SJC, là để đảm bảo việc giao kết và thực hiện hợp đồng, theo thỏa thuận trong hợp đồng thuê nhà, thì bên cho thuê phải trả lại cho bên thuê khi thời hạn hợp đồng kết thúc. Tuy nhiên hợp đồng chấm dứt do lỗi của bị đơn, nên bị đơn phải có nghĩa vụ trả lại cho nguyên đơn 05 chỉ vàng SJC đã đặt cọc.

[2.2] Khi thuê nhà, bị đơn vợ chồng ông T1, bà A đã đồng ý cho bà T cải tạo, sửa chữa nhà cho thuê để đảm bảo mục đích kinh doanh; nguyên đơn bà T xác định số tiền bỏ ra để sửa chữa, cải tạo là 678.000.000 đồng, tuy nhiên qua thời gian sử dụng từ khi thuê đến khi có tranh chấp thì tài sản cải tạo, sửa chữa đã bị khấu hao. Qua định giá tài sản, đã xác định giá trị các tài sản sửa chữa, cải tạo và đầu tư vào căn nhà có trị giá là 289.400.000 đồng, cả nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất kết quả định giá như trên. Xét thấy, phần cải tạo, sửa chữa và đầu tư gắn liền với căn nhà cho thuê và làm tăng giá trị của căn nhà cho thuê; bị đơn vợ chồng ông T1, bà A đã nhận lại nhà và được quản lý, sử dụng các tài sản này, nên phải trả lại trị giá phần cải tạo, sửa chữa nhà cho nguyên đơn là phù hợp.

[2.3] Như đã nhận định trên, việc hai bên có tranh chấp và dẫn đến chấm dứt hợp đồng thuê nhà là do lỗi của bị đơn, nên bản án sơ thẩm tuyên chấm dứt hợp đồng thuê nhà và buộc bị đơn ông Từ Ngọc T1 và và Lê Thị Thu A phải trả cho nguyên đơn bà Phạm Thị Thúy T tài sản đặt cọc là 05 chỉ vàng SJC và trị giá phần sửa chữa, cải tạo và đầu tư vào căn nhà số tiền là 289.400.000 đồng, là có căn cứ và đúng pháp luật. Do đó kháng cáo của bị đơn cho rằng nguyên đơn là người vi phạm hợp đồng, nên bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, là không có cơ sở chấp nhận.

[3] Về yêu cầu khởi kiện phản tố của bị đơn ông Từ Ngọc T1 và bà Lê Thị Thu A: Như đã nhận định ở mục [2.1] trên, lỗi dẫn đến chấm dứt hợp đồng thuê là do phía bị đơn vợ chồng ông T1 và bà A. Do có tranh chấp và bị cắt điện, nước nên không kinh doanh, sinh hoạt tại địa điểm thuê được, bà T đã không sử dụng được căn nhà cho thuê và chuyển đi nơi khác ở. Thời điểm bà T sử dụng căn nhà từ ngày 17/6/2022 đến khi chuyển đi (ngày 15/7/2021), thời gian là 01 tháng. Do đó yêu cầu khởi kiện phản tố của bị đơn về buộc bà Phạm Thị Thúy T phải tiếp tục thanh toán tiền thuê nhà là 17.600.000 đồng/tháng, từ thời điểm ngày 17/6/2021 cho đến thời điểm Tòa án xét xử, với số tiền 264.000.000 đồng, là không có cơ sở. Xét thấy, bà T chỉ sử dụng căn nhà thuê từ ngày 17/6/2021 đến thời điểm chuyển đi (ngày 15/7/2021) là 01 tháng, nên cần chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện phản tố của bị đơn và buộc bà T phải có trách nhiệm thanh toán 01 tháng tiền thuê nhà cho bị đơn, số tiền là 17.600.000 đồng. Đối với yêu cầu thanh toán tiền thuê nhà từ thời điểm ngày 15/7/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 14/9/2022) tương ứng số tiền 246.400.000 đồng, là không có căn cứ, nên bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của bị đơn là phù hợp. Do đó, kháng cáo của bị đơn đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện phản tố của nguyên đơn, là không có cơ sở và cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Toà án phúc thẩm tuyên:

1. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của bà Phạm Thị Thúy T, về việc: Yêu cầu bị đơn trả lại 03 năm tiền thuê nhà đã thanh toán là 571.000.000 đồng.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị Thúy T.

– Chấm dứt Hợp đồng thuê nhà ngày 25/4/2018, giữa ông Từ Ngọc T1 và bà Lê Thị Thu A với bà Phạm Thị Thúy T.

– Buộc bị đơn vợ chồng bà Lê Thị Thu A và ông Từ Ngọc T1 phải trả lại cho bà Phạm Thị Thúy T tài sản đặt cọc là 05 (năm) chỉ vàng SJC và trị giá phần cải tạo, sửa chữa nhà còn lại là 289.400.000 đồng (hai trăm tám mươi chín triệu bốn trăm nghìn đồng).

– Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn bà Lê Thị Thu A và ông Từ Ngọc T1.

– Buộc bà Phạm Thị Thúy T phải thanh toán cho bà Lê Thị Thu A và ông Từ Ngọc T1 số tiền thuê nhà từ ngày 17/6/2021 đến ngày 15/7/2021, số tiền là 17.600.000 đồng (mười bảy triệu sáu trăm nghìn đồng).

– Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

4. Bà Lê Thị Thu A và ông Từ Ngọc T1 toàn quyền quản lý, sử dụng phần sửa chữa, xây dựng cải tạo và tài sản gắn liền với căn nhà tại địa chỉ đường H, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk theo kết quả thẩm định và định giá tài sản.

5. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Lê Thị Thu A và ông

6. Từ Ngọc T1, về nội dung buộc bà Phạm Thị Thúy T phải trả số tiền thuê nhà 246.400.000 đồng (hai trăm bốn mươi sáu triệu bốn trăm nghìn đồng).  

Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật dân sự năm 2015: Điều 357, 468, 422, 428, 472 và 477

– Bộ luật tố tụng dân sự 2015: Điều 26, 35, 39, 147, 184, 227, 228, 266, 308, 309

– Luật Nhà ở 2014: Điều 122, 132

– Luật Thi hành án Dân sự: Điều 2, 6,7,9 và Điều 30

– Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Điều 26,29

 2. Bản án số 136-2023-DS-PT ngày 27.03.2023 của TAND tỉnh Đắk Lắk – Tranh chấp hợp đồng thuê nhà và bồi thường thiệt hại
3.     Bản án số 48/2023/DS-PT Ngày 17/03/2023 của TAND tỉnh Bạc Liêu  

Bản án số 48/2023/DS-PT Ngày 17/03/2023 của TAND tỉnh Bạc Liêu về Tranh chấp quyền sử dụng đất

Thông tin chung

– Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

– Cấp xét xử: Phúc thẩm

– Loại vụ/việc: Dân sự

– Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bạc Liêu

– Áp dụng án lệ: Không

– Thông tin về vụ/việc: ông Trương Hữu T khởi kiện yêu cầu được công nhận quyền sử dụng đất do phần đất ông đang quản lý sử dụng nhưng bị ông Q bà A ngăn cản không cho ông đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và có yêu cầu ông giao trả phần đất ông đang quản lý, sử dụng.

Tóm tắt nội dung vụ án:

Khoảng năm 1984, vợ chồng ông Trương Hữu T bao chiếm phần đất trống của Trạm vật tư thủy lợi để làm nhà ở, đào ao nuôi cá và làm vườn. Do vợ chồng ông được gia đình cho phần đất trồng lúa ở giữa đồng không có đất cất nhà ở, khi vợ chồng ông đến phần đất này ở có sự đồng ý của Trạm vật tư thủy lợi và Ủy ban nhân dân Phường M, thị xã B. Vợ chồng ông sử dụng đất đến năm 1992 thì bà Nguyễn Thị N có kê khai, đăng ký và được Hội đồng đăng ký đất đai Phường M, thị xã B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 31/3/1992 với diện tích 11.300m2, trong đó có 500m2 (T), 800m2 (LNK) và 10.000m2 (Mùa).

Đến năm 2007, vợ chồng ông làm đơn xin hợp thức hóa để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất này thì được địa phương cho biết phần đất ông bà đang quản lý, sử dụng Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Bộ chỉ huy quân sự, nên vợ chồng ông có làm đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu xem xét. Đến ngày 06/01/2011, Bộ chỉ huy quân sự cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tách phần đất vợ chồng ông đang quản lý, sử dụng ra khỏi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Bộ chỉ huy quân sự. Ngày 01/10/2014, Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu có công văn số 3390/UBND-NCPC giao cho Bộ chỉ huy quân sự hỗ trợ cho gia đình ông công bồi đắp diện tích 120m2 và giao cho Ủy ban nhân dân thành phố B hướng dẫn ông thực hiện đầy đủ các thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất mà vợ ông đã kê khai đăng ký năm 1992.

Năm 2001 khi Nhà nước mở rộng Quốc lộ 1A có thu hồi của vợ chồng ông 01 phần đất, theo Quyết định số 218/QĐ-CCGĐ ngày 22/6/2004, diện tích thu hồi bao nhiêu thì ông không nhớ, nhưng Nhà nước có chi trả tiền đền bù giải tỏa 02 lần, theo phiếu chi ngày 06/7/2004 và ngày 29/7/2004.  Khi vợ chồng ông làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần đất này thì bà Âu Thu A và ông Quách Q ngăn cản không cho đo đạc, cắm mốc, xác định ranh giới. Sau đó, Ủy ban nhân dân Phường M, thành phố B có mời 02 bên lên nhiều lần để hòa giải nhưng không thành, sự việc kéo dài hơn 03 năm.

Sau đó, Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu có chỉ đạo giao Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bạc Liêu kết hợp các ban ngành có liên quan xem xét về việc tranh chấp phần đất giữa bà Âu Thu A với gia đình ông. Đến ngày 06/10/2017, Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bạc Liêu kết hợp cùng Ủy ban nhân dân thành phố B, Ủy ban nhân dân Phường M, thành phố B và Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Bạc Liêu trích lục bản đồ địa chính thửa đất số 95, tờ bản đồ số 27 (phần đất gia đình ông đang quản lý, sử dụng) niêm yết công khai tại Ủy ban nhân dân Phường M, thành phố B và thông báo cho ông Q, bà A trong thời hạn 15 ngày nếu tranh chấp thì kiện ra Tòa án. Năm 2017 ông Q và bà A có kiện ông bà ra Tòa án để đòi lại phần đất tranh chấp. Bộ chỉ huy Quân sự đã có văn bản trả lời cho ông Q và bà A theo văn bản số 2373 ngày 08/11/2018, xác định đất ông T sử dụng trước khi Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Bộ chỉ huy Quân sự, ông không có lấn chiếm đất của quốc phòng.

Theo bản vẽ chính thức năm 1997, ông Q đăng ký 03 thửa đất là 92, 94 và 107, tờ bản đồ số 22 tiếp giáp con lộ dân sinh ở hướng Tây, còn phần đất của ông là thửa số 95, tờ bản đồ số 22 tiếp giáp con lộ dân sinh ở hướng Đông và thửa đất của ông đã được Nhà nước công nhận là đất ở hợp pháp. Nay ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất cho ông bà phần đất đo đạc thực tế diện tích 1.026,8m2, thuộc thửa đất số 77 và 78, tờ bản đồ số 23, thành lập năm 2017 (thửa đất số 95, một phần thửa số 98 tờ bản đồ số 22, thành lập năm 1997), phần đất tọa lạc tại Khóm N, Phường M, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.

Bị đơn bà Âu Thu A, ông Quách Q, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Quách Mậu S thống nhất trình bày:  Trước đây, ông Trương Hữu T ở trên phần đất phía bên kia đường Quốc lộ 1A (nay là đường 23/8) đối diện Trạm xá quân y tỉnh Bạc Liêu hiện nay. Đến khoảng năm 1985, trong thời gian Công ty lương thực thị xã Bạc Liêu quản lý nhà máy, ông T qua phần đất của nhà máy che chòi bán quán. Ông Q, bà A không đồng ý và có yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết nhưng không được chấp nhận, vì ông T chỉ che tạm để bán nước ven đường, khi Nhà nước làm đường Quốc lộ thì ông T sẽ di dời. Sau đó, ông Q, bà A phát hiện ông T tiếp tục lấn chiếm trên phần đất của nhà máy nên có khiếu nại đến chính quyền địa phương thì chính quyền địa phương cho rằng thửa đất này Nhà nước đang quản lý nên không giải quyết, nên việc tranh chấp đất kéo dài đến nay.

Về việc Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Bạc Liêu hỗ trợ cho gia đình ông T công bồi đắp diện tích 120m2 với lý do khi Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bạc Liêu xây hàng rào thì ông T cho rằng đã lấn 120m2 đất của ông T, nên ông T gửi đơn đến Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu khiếu nại thì Ủy ban bác đơn của ông T, chỉ đồng ý hỗ trợ công bồi đắp cho ông T chứ không công nhận quyền sử dụng đất cho ông T và cũng không đền bù giá trị quyền sử dụng. Tại văn bản số 3390 ngày 01/10/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu giao Ủy ban nhân dân thành phố B hướng dẫn ông T thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nếu có tranh chấp thì giải quyết theo quy định của pháp luật.

Năm 2018 bà A có khiếu nại đến Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu việc ông T xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu giao Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bạc Liêu giải quyết thì Sở có tiến hành làm việc và xác định nếu Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Bạc Liêu không có nhu cầu sử dụng đất thì xem xét trả lại đất cho gia đình bà A và hướng dẫn bà A khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền. Bà A tiếp tục khiếu nại đến Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bạc Liêu thì Bộ Chỉ huy Quân sự có văn bản trả lời số 2373 ngày 08/11/2018, theo đó phần đất tranh chấp đã được giao cho địa phương, Ủy ban nhân dân thành phố B quản lý, không có xác nhận đất của ông T. Bà A tiếp tục gửi đơn đến Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu yêu cầu giải quyết thì Ủy ban hướng dẫn bà khởi kiện ra Tòa án.

Toà án sơ thẩm tuyên: 

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trương Hữu T, bà Nguyễn Thị N.

– Công nhận cho ông Trương Hữu T và bà Nguyễn Thị N được quyền quản lý, sử dụng phần đất diện tích 805,52m2, thuộc thửa 77, một phần thửa 88, tờ bản đồ số 23 lập năm 2017 (thửa đất số 95, một phần thửa đất số 98, tờ bản đồ số 22 lập năm 1997), tọa lạc tại Khóm 3, Phường M, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu (có tuyên vị trí, số đo các cạnh kèm theo).

–  Ông Trương Hữu T, bà Nguyễn Thị N được quyền liên hệ các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất diện tích 805,52m2, theo quy định pháp luật đối với phần đất được công nhận. 2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trương Hữu T và bà Nguyễn Thị N yêu cầu công nhận quyền sử dụng phần đất nằm trong quy hoạch lộ giới đo đạc thực tế diện tích 221,28m2, tọa lạc tại Khóm 3, Phường M, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu (có tuyên vị trí, số đo các cạnh kèm theo).

– Tạm giao phần đất thuộc lộ giới quy hoạch diện tích là 221,28m2, phần đất thuộc thửa đất số 77, một phần thửa đất số 88, tờ bản đồ số 23 lập năm 2017 (thửa đất số 95, tờ bản đồ số 22 lập năm 1997) cho ông Trương Hữu T, bà Nguyễn Thị N quản lý, sử dụng.

2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Quách Q, bà Âu Thu A; yêu cầu độc lập của ông Quách Mậu S yêu cầu ông Trương Hữu T, bà Nguyễn Thị N giao trả phần đất diện tích 1.026,8m2 (gồm phần đất diện tích 805,52m2 nằm ngoài quy hoạch lộ giới và phần đất diện tích 221,28m2 nằm trong quy hoạch lộ giới), tọa lạc tại Khóm 3, Phường M, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.

Nhận định của Tòa Phúc Thẩm

[1] Về sự có mặt của đương sự: Nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa, người vắng mặt có người đại diện và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt lần thứ hai không có lý do, nên căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

[2] Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm về án phí, chi phí xem xét thẩm định, định giá tài sản, lãi suất trong giai đoạn thi hành án không bị kháng cáo, kháng nghị, cấp phúc thẩm không đặt ra xem xét.

[3] Xét kháng cáo của ông Quách Mậu S. Xét thấy, ông Quách Mậu S đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, không có người đại diện và cũng không có đơn xin xét xử vắng mặt, nên căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của ông Quách Mậu S.

[4] Xét kháng cáo của ông Quách Q và bà Âu Thu A. Căn cứ biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ lập ngày 02/4/2021 và bản vẽ mặt bằng hiện trạng phần đất tranh chấp lập ngày 05/5/2021, bản vẽ mặt bằng hiện trạng phần đất tranh chấp lập ngày 08/6/2018, thể hiện phần đất tranh chấp diện tích 1.026,8m2, thuộc thửa đất số 77 và một phần thửa số 88, tờ bản đồ 23 lập năm 2017 (thửa số 95 và một phần thửa 98, tờ bản đồ số 22, lập năm 1997), trong đó 221,28m2 nằm trong quy hoạch lộ giới đường 23/8, phần đất tranh chấp tọa lạc tại Khóm 3, Phường M, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu, có vị trí số đo các cạnh như sau:

[4.1] Phần đất thuộc thửa 77 (thửa cũ 95), có vị trí như sau:

– Phần đất năm trong quy hoạch lộ giới diện tích 219,08m2

Cạnh hướng Đông giáp phần đất ông Nguyễn Thanh T đang quản lý, sử dụng có số đo 8,68m.

Cạnh hướng Tây giáp phần đất thửa đất số 88 ông Trương Hữu T, bà Nguyễn Thị N đang quản lý, sử dụng có số đo 7,93m.

Cạnh hướng Nam giáp phần đất nằm ngoài lộ giới quy hoạch có số đo 25,99m.

Cạnh hướng Bắc giáp đường 23/8 có số đo 25,32m + 1,41m.

– Phần đất nằm ngoài quy hoạch lộ giới diện tích 770,62m2

Cạnh hướng Đông giáp phần đất ông Nguyễn Thanh T quản lý, sử dụng có số đo 29,92m.

Cạnh hướng Tây giáp phần đất thửa đất số 88 ông Trương Hữu T, bà Nguyễn Thị N đang quản lý, sử dụng có số đo 32,30m.

Cạnh hướng Nam giáp phần đất bà Nguyễn Kim N, bà Phạm Thị T, Bệnh viện quân dân y quản lý, sử dụng có số đo 1,42m + + 10,42m + 9,16m.

Cạnh hướng Bắc giáp đất quy hoạch lộ giới có số đo 25,99m.

[4.2] Phần đất thuộc một phần thửa đất số 88, có vị trí như sau:

– Phần đất thuộc quy hoạch lộ giới diện tích 2,2m2

Cạnh hướng Đông giáp phần đất thuộc phạm vi quy hoạch lộ giới thửa số 77, ông Trương Hữu T, bà Nguyễn Thị N đang quản lý, sử dụng có số đo 7,93m.

Cạnh hướng Tây giáp phần đất lộ giới quy hoạch thửa đất số 88 ông Quách Q, bà Âu Thu A đang quản lý, sử dụng có số đo 7,93m.

Cạnh hướng Nam giáp phần đất nằm ngoài quy hoạch lộ giới có số đo 0,49m;

Cạnh hướng Bắc giáp đường 23/8 có số đo 0,13m.

– Phần đất nằm ngoài quy hoạch lộ giới diện tích 34,9m2

Cạnh hướng Đông giáp phần đất thửa số 77 ông Trương Hữu T, bà Nguyễn Thị N quản lý, sử dụng có số đo 32,30m.

Cạnh hướng Tây giáp phần đất thửa số 88 ông Quách Q, bà Âu Thu A đang quản lý, sử dụng có số đo 2,45m + 17,34m + 12,65m.

Cạnh hướng Nam giáp phần đất bà Nguyễn Kim N quản lý, sử dụng có số đo 0,18m + 0,76m;

Cạnh Hướng Bắc giáp đất quy hoạch lộ giới có số đo 0,49m;

Thửa đất số 95, tờ bản đồ số 22 lập năm 1997 và thửa đất số 77, tờ bản đồ số 23 lập năm 2017 do bà Nguyễn Thị N đứng tên kê khai trong sổ mục kê; thửa đất số 98, tờ bản đồ số 22 lập năm 1997 do bà Phạm Thị T đứng tên kê khai trong sổ mục kê; thửa đất số 88, tờ bản đồ số 23 lập năm 2017 do ông Quách Q đứng tên kê khai trong sổ mục kê, nhưng ông T, bà N quản lý sử dụng. Theo văn bản số 1008/PTNMT ngày 08/7/2019 của Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố B xác định các thửa đất số 95, 98 tờ bản đồ số 22 hiện chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai.

[4.3] Xét chứng cứ do ông T, bà N cung cấp. Hội đồng xét xử xét thấy, theo đơn xin xác nhận do bà N đứng đơn đề ngày 27/01/1984 thể hiện nội dung bà không có đất cất nhà ở, nên xin đất của Trạm vật tư thủy lợi cất nhà ở, nhưng phải có xác nhận của Ủy ban Phường, đơn này được Chủ tịch UBND Phường M xác nhận bà N có đất ruộng ở giữa đồng, không có đất cất nhà ở và tại đơn kê khai nguồn gốc đất ở do bà N đứng đơn đề ngày 10/02/2004 được Chủ tịch UBND Phường M xác nhận, bà N cất nhà ở trên phần đất đang tranh chấp từ ngày 27/11/1984, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND

Phường M cấp cho bà Nguyễn Thị N ngày 31/3/1992 với diện tích 11.300m2, trong đó có 500m2 (T), 800m2 (LNK) và 10.000m2 (Mùa), theo Bảng tổng hợp thửa chính thức của UBND Phường M lập ngày 25/11/1993 thể hiện thửa 65 diện tích 1.007,8m2 do bà N đứng tên và tại báo cáo số 174/BC-TCTLN ngày 17/6/2014 của Tổ công tác liên ngành do Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu tiến hành kiểm tra, xác minh đã xác định: Nguồn gốc đất ông T yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là của Trạm Vật tư thủy lợi thuộc Ty Thủy lợi Minh Hải quản lý từ năm 1976, ông T đến sử dụng đất của Trạm Vật tư thủy lợi từ năm 1984 được sự đồng ý của Trạm Vật tư thủy lợi và Ủy ban nhân dân Phường M, thị xã B, nên ông Q, bà A và ông S cho rằng nguồn gốc phần đất của ông T, bà N đang quản lý, sử dụng của nhà máy L là không có căn cứ chấp nhận. Do đó, có căn cứ xác định phần đất tranh chấp bà N, ông T trực tiếp quản lý, sử dụng ổn định từ năm 1984 đến năm 1992 đã kê khai, đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên cấp sơ thẩm công nhận quyền sử dụng phần đất tranh chấp diện tích 805,52m2 nằm ngoài quy hoạch lộ giới đường 23/8 cho ông T, bà N và tạm giao phần đất nằm trong quy hoạch lộ giới diện tích 221,28m2 cho ông T, bà N tiếp tục quản lý, sử dụng là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[4.4] Xét chứng cứ do ông Q, bà A cung cấp chứng minh cho yêu cầu phản tố và kháng cáo. Theo ông Q, bà A xác định phần đất tranh chấp nằm trong phần đất diện tích 3.000m2 do nhà máy L nhận chuyển nhượng của ông Du Văn T1 và bà Thạch Thị H, khi Nhà nước trả nhà máy và đất lại cho chủ cũ nhưng không trả hết đất mà còn giữ lại phần đất diện tích 3.000m2 này, các chứng cứ do ông Q, bà A cung cấp là xác nhận của ông Du G, ông Du H1 xác định ngày 20/4/1974 cha mẹ là ông Du Văn T1 và bà Thạch Thị H có bán cho hai ông chủ nhà máy L phần đất diện tích 3.000m2 và xác nhận của ông Võ Ngọc H1 là người làm công cho Nhà máy L từ năm 1970 xác định, sau khi nhà máy đi vào hoạt động năm 1969 thì ông Quách L và ông Âu M có mua của ông T1, bà H phần đất chiều ngang 30m, chiều dài 100m.

Hội đồng xét xử xét thấy, trong quá trình tố tụng ông Q, bà A không cung cấp được hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông L, ông M với ông T1, bà H, căn cứ vào sự xác nhận của ông Du G, ông Du H và ông Võ Ngọc H1 chưa đủ căn cứ để xác định ông L, ông M có nhận chuyển nhượng của ông T1, bà H phần đất diện tích 3.000m2, và phần đất nhận chuyển nhượng này nằm ở vị trí nào, lời trình bày của ông H1 không phù hợp với các chứng cứ khác, nên cũng không có căn cứ để xem là chứng cứ. Đối với lời trình bày của ông Q, bà A xác định khi trả lại nhà máy Nhà nước có giữ lại của nhà máy phần đất diện tích 3.000m2 là phần đất do ông L, ông M nhận chuyển nhượng của ông T1, bà H. Tuy nhiên, căn cứ biên bản giao trả nhà máy lập ngày 23/9/1988 thể hiện UBND thị xã B trả lại toàn bộ tài sản, các thiết bị và nhà bao che lợp tol diện tích 42m2, sân phơi 14m x 45m, mặt bằng trong phạm vi kinh doanh 5.000m2. Lời khai của ông Trần K là Giám đốc Công ty lương thực thị xã B từ năm 1985 – 1989 xác định, năm 1988 UBND thị xã B (nay là thành phố B) trả lại nhà máy cho chủ cũ đã trả lại hết đất, không giữ lại phần đất nào, trong thành phần giao trả nhà máy và tài sản lại cho chủ cũ có ông tham gia và ông là người đề xuất UBND trả nhà máy và đất lại cho chủ cũ. Như vậy, chưa có căn cứ để xác định ông L và ông M có nhận chuyển nhượng của ông T1, bà H phần đất diện tích 3.000m2 (ngang 30m x dài 100m) và cũng không có chứng cứ để chứng minh khi UBND thị xã B trả nhà máy L cho chủ củ còn giữ lại 3.000m2 đất của nhà máy.

Hơn nữa, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND Phường M cấp cho ông Quách Q ngày 31/3/1992 và Bảng tổng hợp thửa đất chính thức của UBND Phường M lập ngày 25/11/1993 thể hiện ông Quách Q chỉ kê khai, đăng ký quyền sử dụng các thửa đất số 94 diện tích 1.319,6m2; thửa 107 diện tích 4.100,8m2, còn thửa đát số 95 diện tích 1.007,8m2 ông Q không kê khai, đăng ký vì thời điểm này thửa 95 bà N đã kê khai, đăng ký.

Do đó, không có căn cứ để xác định phần đất tranh chấp đo đạc thực tế diện tích 1.026,8m2 thuộc quyền quản lý, sử dụng của nhà máy L (Nhà Máy Bạc Liêu 7). Do đó, cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Q, bà A cũng như yêu cầu độc lập của ông S là có căn cứ, phù hợp pháp luật, nên cấp phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông Q, bà A, cần giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 160/2022/DS-ST ngày 27/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.

[4.5] Theo mặt bằng hiện trạng khu đất tranh chấp ngày 05/5/2021 thì hiện trạng phần đất tranh chấp qua đo đạc thực tế có diện tích 1.026,8m2 thuộc thửa 77 (thửa cũ 95) diện tích 770,62m2 nằm ngoài quy hoạch lộ giới, diện tích 221,28m2 nằm trong quy hoạch lộ giới và một phần thửa 88 (thửa cũ 98) diện tích 37,10m2, trong đó có diện tích 2,2m2 nằm trong quy hoạch lộ giới. Đối chiếu với sổ mục kê lập năm 2017 thì thửa đất số 77 tờ bản đố số 23 bà Nguyễn Thị N đứng tên đăng ký, kê khai, thửa đất số 88 tờ bản đồ số 23 ông Quách Q là người đứng tên đăng ký kê khai, nhưng không quản lý, sử dụng đất mà phần đất diện tích 34,9m2 này do ông T, bà N quản lý, sử dụng từ năm 1984 đến nay.

[5] Xét đề nghị của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà A. Hội đồng xét xử xét thấy, như đã phân tích để nghị của Luật sư chưa phù hợp nên không được chấp nhận.

[6] Xét đề nghị của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông T. Hội đồng xét xử xét thấy, đề nghị của Luật sư là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên được chấp nhận.

[7] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm. Hội đồng xét xử xét thấy, đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên được chấp nhận.

[8] Về án phí phúc thẩm dân sự, ông Q, bà A kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí. Tuy nhiên, ông Q, và A có đơn xin miễn án phí do thuộc trường hợp người cao tuổi, căn cứ Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí dân sự phúc thẩm cho ông Q, bà A.

Toà án phúc thẩm tuyên:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trương Hữu T, bà Nguyễn Thị N đối với ông Quách Q, bà Âu Thu A.

1.1. Công nhận phần đất diện tích là 805,52m2, thuộc thửa 77 (thửa cũ 95), một phần thửa 88 (thửa cũ 98), tờ bản đồ số 23 lập năm 2017, cho ông Trương Hữu T, bà Nguyễn Thị N, phần đất tọa lạc tại Khóm 3, Phường M, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu, có vị trí, số đo các cạnh như sau:

Cạnh hướng Đông giáp phần đất ông Nguyễn Thanh T quản lý, sử dụng có số đo 29,92m.

Cạnh hướng Tây giáp phần đất ông Quách Q, bà Âu Thu A đang quản lý, sử dụng có số đo 2,45m + 17,34m + 12,65m.

Cạnh hướng Nam giáp phần đất bà Nguyễn Kim N, bà Phạm Thị T,

Bệnh viện quân dân y Bạc Liêu quản lý, sử dụng có số đo 0,18m + 0,76m + 1,42m + 6,82m + 3,60m + 0,39m + 9,16m.

Cạnh hướng Bắc giáp phần đất quy hoạch lộ giới có số đo 0,49m + 25,99m.

1.2. Ông Trương Hữu T, bà Nguyễn Thị N được quyền liên hệ các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kê khai, đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất diện tích 805,52m2 được công nhận, theo quy định pháp luật.

2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trương Hữu T và bà Nguyễn Thị N yêu cầu công nhận phần đất trong phạm vi quy hoạch lộ giới diện tích 221,28m2, tọa lạc tại Khóm 3, Phường M, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.

Tạm giao phần đất diện tích 221,28m2 nằm trong quy hoạch lộ giới, thuộc thửa 77 (thửa cũ 95), một phần thửa 88 (thửa cũ 98), tờ bản đồ số 23 lập năm 2017, cho ông Trương Hữu T, bà Nguyễn Thị N quản lý, sử dụng, phần đất tọa lạc tại Khóm 3, Phường M, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu, có vị trí, số đo các cạnh như sau:

Cạnh hướng Đông giáp phần đất lộ giới quy hoạch ông Nguyễn Thanh T đang quản lý, sử dụng có số đo 8,68m.

Cạnh hướng Tây giáp phần đất lộ giới quy hoạch ông Quách Q, bà Âu Thu A đang quản lý, sử dụng có số đo 7,93m.

Cạnh hướng Nam giáp phần đất công nhận cho ông Trương Hữu T, bà Nguyễn Thị N nêu trên có số đo 0,49m + 25,99m.

Cạnh hướng Bắc giáp đường 23/8 có số đo 0,13m + 1,28m + 25,32m.

3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Quách Q, bà Âu Thu A và yêu cầu độc lập của ông Quách Mậu S đối với ông Trương Hữu T, bà Nguyễn Thị N về việc yêu cầu ông Trương Hữu T, bà Nguyễn Thị N giao trả phần đất tranh chấp đo đạc thực tế diện tích 1.026,8m2, thuộc thửa 77 (thửa cũ 95), một phần thửa 88 (thửa cũ 98), tờ bản đồ số 23 lập năm 2017, tọa lạc tại Khóm 3, Phường M, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu; vị trí, số đo các cạnh như mục 1 và mục 2 của phần quyết định.

4. Mặt bằng hiện trạng khu đất tranh chấp do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Bạc Liêu lập ngày 05/5/2021 và bản vẽ bổ sung hiện trạng khu đất được kèm theo Bản án và là bộ phận không thể thách rời của Bản án.

5. Án phí dân sự sơ thẩm; chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài phần đất tranh chấp và án phí dân sự phúc thẩm.

5.1. Án án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trương Hữu T, bà Nguyễn Thị N, ông Quách Q, bà Âu Thu A và ông Quách Mậu S được miễn nộp toàn bộ. Ông Quách Q, bà Âu Thu A đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng, theo Biên lai thu số 0007418 ngày 17/12/2020, tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B được hoàn lại toàn bộ.

5.2. Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản tranh chấp là 3.042.000 đồng. Ông Trương Hữu T, bà Nguyễn Thị N phải chịu chung số tiền 1.521.000 đồng; ông Quách Q, bà Âu Thu A và ông Quách Mậu S phải chịu chung số tiền 1.521.000 đồng. Buộc ông Quách Q, bà Âu Thu A và ông Quách Mậu S mỗi người có trách nhiệm giao trả cho ông Trương Hữu T và bà Nguyễn Thị N số tiền 507.000 đồng (Năm trăm lẻ bảy ngàn đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự.

5.3. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Quách Q, bà Âu Thu A và ông Quách Mậu S được miễn nộp toàn bộ.

6. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 của Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án Dân sự.

Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật dân sự năm 2015: Điều 166; Khoản 2 Điều 357

– Bộ luật tố tụng dân sự 2015: Khoản 1 Điều 308; Khoản 3 Điều 296; khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39; các Điều 91, 147, 157; 158; 165; khoản 2 Điều 244; Điều 294.

– Luật Đất đai 2013: Điều 100, Điều 203

– Luật Thi hành án Dân sự: Điều 2, 6,7,7a,7b,9 và Điều 30

– Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 29

 3. Bản án số 48-2023-DS-PT Ngày 17.03.2023 của TAND tỉnh Bạc Liêu – Tranh chấp quyền sử dụng đất
4.        

Bản án số 09/2023/DS-PT Ngày 05/01/2023 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng thuê nhà

Thông tin chung

– Quan hệ pháp luật:Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

– Cấp xét xử:Phúc thẩm

– Loại vụ/việc:Dân sự

– Tòa án xét xử:TAND tỉnh Bình Dương

– Áp dụng án lệ: Không

– Thông tin về vụ/việc: không chấp nhận kháng cáo

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ngày 01 tháng 3 năm 2021, Công ty TNHH K ký kết Hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 0103/2021/HĐTL với ông Trương Văn P; nội dung: ông Nguyễn Văn L và bà Đặng Thị C là chủ sử dụng quyền sử dụng đất diện tích 127,6m2 thuộc thửa đất số 680, tờ bản đồ số 54 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CU 720031, số vào sổ CS15130 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương cấp ngày 16 tháng 3 năm 2020 (điều chỉnh biến động ngày 16 tháng 3 năm 2020); chủ sở hữu căn nhà cấp 03 gắn liền đất có diện tích xây dựng 78m2, diện tích sàn 254m2; ông P là người thuê của ông L, bà C và Công ty TNHH K là người thuê lại nhà, đất trên của ông P, thời hạn thuê 01 năm từ ngày 01 tháng 3 năm 2021 đến ngày 01 tháng 3 năm 2022, giá thuê 55.000.000 đồng/tháng, ngay sau khi ký kết hợp đồng thì Công ty TNHH K đặt cọc cho ông P số tiền 200.000.000 đồng, tiền thuê sẽ được trả từ ngày 01 đến 10 tây hàng tháng, hình thức là chuyển khoản. Mục đích thuê: để ở, kinh doanh thương mại, làm Chi nhánh Công ty TNHH K.

Sau đó, ngày 25 tháng 5 năm 2021, Công ty TNHH K và ông P thỏa thuận ký kết Phụ lục hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để điều chỉnh về thời hạn thuê, giá thuê và số tiền cọc. Cụ thể:

– Thời hạn thuê là 11 năm, từ ngày 01 tháng 3 năm 2021 đến ngày 01 tháng 3 năm 2032.

– Giá thuê: chia thành 02 trường hợp.

Trường hợp thứ nhất: Ngôi nhà nhỏ liền sát phía đường D1 nối dài qua đường 30/4 chưa phá bỏ thì giá thuê là 55.000.000 đồng/tháng, cứ mỗi năm tăng 5%/tháng so với năm liền kề trước đó.

Trường hợp thứ hai: Ngôi nhà nhỏ liền sát phía đường D1 nối dài qua đường 30/4 được phá bỏ thì giá thuê là 70.000.000 đồng/tháng, cứ mỗi năm tăng 5%/tháng so với năm liền kề trước đó.

– Tiền đặt cọc: Công ty TNHH K đặt cọc thêm cho ông P số tiền 200.000.000 đồng, chia làm 02 đợt, cụ thể: đợt 01 ngày 01 tháng 12 năm 2021 đặt cọc thêm số tiền 100.000.000 đồng, đợt thứ 02 ngày 01 tháng 6 năm 2022 đặt cọc thêm số tiền 100.000.000 đồng.

Các nội dung khác của Hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 0103/2021/HĐTL vẫn giữ nguyên.

Thực tế, ngay sau khi ký kết Hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất nêu trên ngày 01 tháng 3 năm 2021 thì Công ty TNHH K đã đặt cọc cho ông P số tiền 200.000.000 đồng; đối với Phụ lục hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 25 tháng 5 năm 2021, Công ty TNHH K chưa đặt cọc cho ông P. Công ty TNHH K quản lý, sử dụng tài sản thuê từ ngày 01 tháng 3 năm 2021 đến tháng 5 năm 2021 và đã trả tiền thuê đến hết tháng 5 năm 2021 (tháng 3 trả 55.000.000 đồng, tháng 4 trả 45.000.000 đồng, tháng 5 trả 55.000.000 đồng). Hình thức trả tiền cọc và tiền thuê đều thông qua chuyển khoản, số tài khoản của ông Trương Văn P là 050045168295, ngân hàng SACOMBANK (SCB) – Chi nhánh Bình Dương.

Do ảnh hưởng của tình hình dịch bệnh Covid – 19, nên đến tháng 6 năm 2021, Công ty TNHH K đã gửi cho ông P Công văn số 01/2021/CV-KH về việc xin giảm 60% chi phí thuê của tháng 6 năm 2021. Ngày 18 tháng 6 năm 2021, Công ty TNHH K gửi Thư thông báo số 01/2021/TB cho ông P với nội dung: Công ty TNHH K đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê với ông P và đề nghị ông P hoàn trả số tiền đặt cọc là 200.000.000 đồng. Công ty TNHH K đã gửi thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng và bàn giao lại tài sản thuê cho ông P từ tháng 6 năm 2021; Công ty TNHH K nhiều lần yêu cầu ông P trả lại số tiền cọc đã nhận là 200.000.000 đồng nhưng ông P trốn tránh, không thực hiện. Do đó, Công ty TNHH K khởi kiện:

– Yêu cầu Tòa án tuyên bố chấm dứt Hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 0103/2021/HĐTL ngày 01 tháng 3 năm 2021 và Phụ lục hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 25 tháng 5 năm 2021 giữa Công ty TNHH K và ông P.

– Buộc ông P trả lại cho Công ty TNHH K số tiền cọc đã nhận là 200.000.000 đồng.

Bị đơn cho rằng, việc Công ty TNHH K đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn với ông P là trái pháp luật nên phải mất cọc, ông P không đồng ý trả lại cho Công ty TNHH K số tiền đặt cọc 200.000.000 đồng.

Toà án sơ thẩm tuyên: 

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH K đối với bị đơn ông Trương Văn P.

2. Tuyên bố chấm dứt “Hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 0103/2021/HĐTL ký kết ngày 01 tháng 3 năm 2021 và Phụ lục hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 25 tháng 5 năm 2021” giữa Công ty TNHH K và ông Trương Văn P.

3. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH K về việc buộc ông Trương Văn P trả lại số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng).

Nhận định của Tòa Phúc Thẩm

[1] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn L và bà Đặng Thị C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham dự phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông L, bà C theo quy định tại Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Ngày 01 tháng 3 năm 2021, Công ty TNHH K ký kết Hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 0103/2021/HĐTL với ông Trương Văn P, nội dung: ông P cho Công ty TNHH K thuê diện tích đất 127,6m2 và căn nhà cấp 03 gắn liền đất có diện tích xây dựng 78m2, diện tích sàn 254m2 thuộc thửa đất số 680, tờ bản đồ số 54 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CU720031, số vào sổ CS15130 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương cấp ngày 16 tháng 3 năm 2020 cho ông Nguyễn Văn L. Thời hạn thuê 01 năm từ ngày 01 tháng 3 năm 2021 đến ngày 01 tháng 3 năm 2022, giá thuê 55.000.000 đồng/tháng. Ngay sau khi ký kết hợp đồng thì Công ty TNHH K đặt cọc cho ông P số tiền 200.000.000 đồng, tiền thuê sẽ được trả từ ngày 01 đến 10 tây hàng tháng, hình thức là chuyển khoản. Mục đích thuê: để ở, kinh doanh thương mại, làm Chi nhánh Công ty TNHH K. Sau đó, ngày 25 tháng 5 năm 2021, Công ty TNHH K và ông P thỏa thuận ký kết Phụ lục hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để điều chỉnh về thời hạn thuê, giá thuê và số tiền cọc. Thời gian thuê cụ thể là từ ngày 01 tháng 3 năm 2021 đến ngày 01 tháng 3 năm 2032.

[3] Theo chứng cứ có tại hồ sơ thể hiện nhà, đất mà ông Trương Văn P cho Công ty TNHH K thuê lại là của ông Nguyễn Văn L và bà Đặng Thị C cho ông Trương Văn P thuê theo Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (nhà ở) số 1003/2020/HĐTQSDĐ ngày 10/3/2020. Theo hợp đồng thể hiện mục đích thuê là “làm văn phòng cho thuê và kinh doanh dịch vụ thương mại”. Thời gian thuê là 10 năm, từ ngày 01 tháng 5 năm 2020 đến ngày 01 tháng 5 năm 2030. Sau đó, vợ chồng bà C có ký kết với ông P Phụ lục hợp đồng thuê để điều chỉnh hợp đồng thuê ngày 10 tháng 3 năm 2020, cụ thể điều chỉnh thời gian thuê là 11 năm, từ ngày 15 tháng 6 năm 2020 đến ngày 15 tháng 6 năm 2031.

[4] Như vậy, đối tượng của hợp đồng mà các bên giao kết là thuê nhà, mục đích kinh doanh nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các quy định của Luật nhà ở để giải quyết tranh chấp là phù hợp. Trên cơ sở hợp đồng thuê đã ký với ông L và bà C, ngày 01/3/2021 ông P ký hợp đồng cho Công ty TNHH K thuê lại nhà, đất nêu trên. Công ty TNHH K cho rằng khi giao kết hợp đồng, ông P đã không cung cấp thông tin về hợp đồng giữa ông P với ông L, bà C cũng như ông P không có đủ điều kiện cho Công ty TNHH K vì theo hợp đồng giữa ông P với ông L, bà C là 10 năm nhưng cho Công ty TNHH K thuê với thời hạn 11 năm. Xét thấy, tại Hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số: 0103/2021/HĐTL ngày 01/3/2021 giữa ông P và Công ty TNHH K đã thể hiện rõ bên cho thuê là ông Nguyễn Văn L, bà Đặng Thị C, bên thuê là ông Trương Văn P và bên thuê lại là Công ty TNHH K nên người đại diện hợp pháp của nguyên đơn cho rằng ông P không cung cấp thông tin về hợp đồng giữa ông P và ông L, bà C là không có căn cứ. Như trên đã phân tích, tài sản các bên cho thuê là nhà, đất, việc ông P cho Công ty TNHH K thuê lại được bên thuê là ông L, bà C không phản đối và thống nhất nên trong trường hợp này ông P có quyền cho thuê lại tài sản mà ông P đã thuê theo quy đinh tại Điều 475 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Ông P chỉ thuê nhà của ông L, bà C đến ngày 15 tháng 6 năm 2031 nhưng lại cho Công ty TNHH K thuê nhà đến ngày 01 tháng 3 năm 2032 là vượt quá thời gian ông P thuê nhà của ông L, bà C. Tuy nhiên, đối với Phụ lục hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 25/5/2021, Công ty TNHH K và ông P khai thống nhất hiện nay các bên chưa thực hiện điều khoản nào của phụ lục hợp đồng; ông L, bà C cũng không ý kiến, không tranh chấp nên nguyên đơn cho rằng bị đơn ông P không đủ điều kiện cho bị đơn thuê lại là không có căn cứ.

[5] Theo nguyên đơn trình bày do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid – 19, việc kinh doanh của Công ty TNHH K gặp nhiều khó khăn nên ngày 18/6/2021 công ty đã gửi văn bản đơn phương chấm dứt hợp đồng với ông P và công ty đã bàn giao tài sản cho ông P trong tháng 6 năm 2021. Xét thấy, Hợp đồng thuê số 0103/2021/HĐTL ngày 01 tháng 3 năm 2021 giữa Công ty TNHH K và ông P là hoàn toàn tự nguyện, các bên có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự; hình thức, mục đích, nội dung của hợp đồng đúng quy định, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Do đó, Hợp đồng có hiệu lực theo quy định tại Điều 117, Điều 472, 475 Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014. Công ty TNHH K cho rằng do thời điểm tháng 6, tháng 7 năm 2021 thì cả tỉnh Bình Dương đang chịu ảnh hưởng nặng nề của tình hình dịch bệnh Covid – 19; tỉnh Bình Dương đang thực hiện Chỉ thị 15 và Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ nên Công ty TNHH K phải đóng cửa, không kinh doanh, đây là sự kiện bất khả kháng nên công ty có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Xét, thời gian thuê nhà của Công ty TNHH K và ông P là từ 01 tháng 3 năm 2021 đến ngày 01 tháng 3 năm 2032; trong khi đó dịch bệnh chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian. Trường hợp Công ty TNHH K cho rằng do dịch bệnh, kinh doanh khó khăn, không có khả năng đóng tiền thuê cho ông P thì có thể đề nghị ông P miễn hoặc giảm tiền thuê trong thời gian dịch bệnh nhưng Công ty TNHH K không áp dụng mọi biện pháp cần thiết để có thể thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của người thuê. Do vậy, công ty cho rằng trong trường hợp này công ty được áp dụng sự kiện bất khả kháng theo quy định tại Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015, là không có căn cứ. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 4 Điều 132 Luật Nhà ở quy định bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà ở phải thông báo cho bên kia biết trước ít nhất 30 ngày, tuy nhiên Công ty TNHH K đã không thông báo cho ông Phương và thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng của Công ty TNHH K không có căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 132 Luật nhà ở nên Tòa án cấp sơ thẩm nhận định Công ty TNHH K đã đơn phương chấm dứt hợp đồng với ông Phương trái pháp luật là có căn cứ.

[6] Việc Công ty TNHH K đặt cọc cho ông P số tiền 200.000.000 đồng là để đảm bảo cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng. Theo thỏa thuận tại Điều 6 của hợp đồng hai bên thỏa thuận “Được chấm dứt hợp đồng trước hạn nhưng phải di chuyển toàn bộ công trình đã đầu tư xây dựng trên đất ra khỏi khu đất đồng thời phải chịu mất số tiền đặt cọc cho bên A (ông P) do bên B (Công ty TNHH K) chấm dứt hợp đồng thuê trước hạn mà không do lỗi của bên A”. Công ty TNHH K đã đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật với ông P nên căn cứ vào thỏa thuận trên và quy định tại Điều 328 của Bộ luật Dân sự thì Công ty TNHH K phải mất tiền cọc. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về trả lại số tiền cọc là có căn cứ.

[7] Nguyên đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ nào chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là có căn cứ nên kháng cáo nguyên đơn không được chấp nhận.

[8] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại phiên tòa là phù hợp.

[9] Về án phí dân sự phúc thẩm: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

Toà án phúc thẩm tuyên:

1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Công ty TNHH K.

2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 71/2022/DS-ST ngày 28 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Công ty TNHH K phải chịu số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001748 ngày 08 tháng 8 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương (do ông Thái Hoài Dnộp thay).

Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật dân sự năm 2015: Điều 117,  428, 472,  475, 156, 328

– Bộ luật tố tụng dân sự 2015: Điều 296; khoản 1 Điều 308; Điều 313

– Luật Đất đai 2013: Điều 500, 501, 502, Điều 167

– Luật Nhà ở 2014: Điều 122, Khoản 3, khoản 4 Điều 132

– Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án

 

 4. Bản án số 09-2023-DS-PT Ngày 05.01.2023 của TAND tỉnh Bình Dương – Tranh chấp hợp đồng thuê nhà
5.     Bản án số 826/2022/DS-PT Ngày 26/12/2022 của  TAND TP. Hồ Chí Minh  

Bản án số 826/2022/DS-PT Ngày 26/12/2022 của  TAND TP. Hồ Chí Minh về Tranh chấp hợp đồng thuê nhà 

Thông tin chung

– Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

– Cấp xét xử: Phúc thẩm

– Loại vụ/việc: Dân sự

– Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh

– Áp dụng án lệ: Không

– Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn B; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 343/2022/DS-ST ngày 27/9/2022 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh về việc “tranh chấp hợp đồng thuê nhà”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ngày 23/02/2019, ông Nguyễn Văn B và Hoàng Thị Ngọc A có ký hợp đồng thuê nhà với nội dung: Tiền nhà được tính từ ngày 05/3/2019, bà A cho ông B thuê toàn bộ căn nhà Quận Tân Bình, thời hạn thuê là 05 năm kể từ ngày 05/3/2019 đến ngày 05/02/2024, giá thuê là 02 năm đầu tiên là 29.000.000 đồng, bà A có nhận tiền cọc 03 tháng tiền nhà của ông B là 87.000.000 đồng. Tiền đầu tư ban đầu là 200.000.000 đồng.

Sau khi sửa chữa bố trí mặt bằng nhưng kế hoạch kinh doanh của ông B không thực hiện được vì vậy ngày 25/4/2019, ông B đã cho ông Đỗ Đăng D và bà Nguyễn Thị G thuê lại căn nhà nêu trên với thời hạn thuê là 58 tháng từ 23/4/2019 đến 23/02/2024, giá thuê 30.000.000 đồng/tháng… Ông B đã nhận của bà G và ông D tiền cọc là 60.000.000 đồng. Hợp đồng quy định: “Nếu bên B không còn nhu cầu sử dụng nhà kinh doanh hoặc muốn sang nhượng lại cho bên thứ 3 thì phải báo cho bên A biết trước…” Ông B đã đã báo cho bà A biết cho bên thứ 3 thuê lại nhưng bà A không có ý kiến gì.

Khi ông đã ký hợp đồng và giao nhà cho ông D và bà G thì bà A lại cản trở, gây thiệt hại lớn cho ông B nên ông B có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Hoàng Thị Ngọc A bồi thường gấp đôi tiền cọc, trả lại tiền nhận cọc và tiền đầu tư theo hợp đồng theo hợp đồng thuê ngày 23/02/2019 cụ thể: 174.000.000đ bồi thường tiền cọc +  87.000.000đ tiền cọc + 200.000.000đ tiền đầu tư ban đầu = 461.000.000.000đ; buộc bà Hoàng Thị Ngọc A bồi thường gấp đôi tiền cọc, trả lại tiền nhận cọc và tiền đầu tư theo hợp đồng theo hợp đồng thuê ngày 25/4/2019 cụ thể: 120.000.000đ bồi thường tiền cọc +  60.000.000đ tiền cọc = 180.000.000đ; Tổng cộng số tiền bà A phải bồi thường là 641.000.000 đồng.

Ngày 25/01/2021, ông Nguyễn Văn B đã thông báo và trả lại nhà  cho bà A theo yêu cầu của bà A.

Ngày 19/9/2022, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn xin rút đơn khởi kiện đề ngày 02/6/2019 đối với bị đơn bà Hoàng Thị Ngọc A.

Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B yêu cầu bà trả lại tiền cọc và bồi thường tổng số tiền là 641.000.000đồng. Bà không đồng ý vì ông B đã vi phạm hợp đồng theo Điều 2 và 3 của hợp đồng do ông B không thanh toán tiền nhà và cho người khác thuê lại nhưng không có sự đồng ý của bà.

Do đó, bà A có đơn phản tố yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông B trả lại cho bà A toàn bộ căn nhà Quận Tân Bình; yêu cầu ông B trả tiền thuê nhà còn nợ từ ngày 5/5/2019 đến nay gồm: 17 tháng x 29.000.000đ = 493.000.000đ; lãi chậm trả 2%/tháng tạm tính số tiền là 88.740.000.000đ; bồi thường thiệt hại do đập phá nhà hư hại là 20.000.000đ, tổng cộng là 601.740.000 đồng.

Tuy nhiên, ngày 25/01/2021, ông Nguyễn Văn B đã thông báo và đã trả lại nhà cho bà A. Ngày 22/6/2022, bà A có đơn xin rút một phần yêu cầu phản tố đối với ông Nguyễn Văn B về việc yêu cầu ông B trả lại cho bà A toàn bộ căn nhà Quận Tân Bình và rút lại yêu cầu bồi thường do đập phá nhà số tiền là 20.000.000 đồng.

Nhận định của Tòa Phúc Thẩm

– Về thời hạn kháng cáo:

[1] Ngày 27/9/2022, Tòa án Nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm, ngày 24/10/2022 bị đơn ông Nguyễn Văn B có đơn kháng cáo. Căn cứ khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự xác định đơn kháng cáo của bị đơn trong thời hạn luật định, là hợp lệ được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

– Về tố tụng:

[2] Nguyên đơn bà Hoàng Thị Ngọc A có mặt; Bị đơn ông Nguyễn Văn B ủy quyền cho ông Phan Văn C có mặt; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn B1 có mặt; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Đăng D ủy quyền cho ông Nguyễn Trọng E vắng mặt; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị G vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

– Về nội dung vụ án:

[3] Xét kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn B, Hội đồng xét xử nhận định: Căn cứ hợp đồng thuê nhà ông B cung cấp ở trang 1 của hợp đồng ghi ngày 23/02/2019, còn bà A cung cấp hợp đồng ở trang 1 của hợp đồng không ghi ngày tháng nhưng tất các nội dung khác đều giống nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án, hai bên đều thừa nhận giữa người cho thuê bà Hoàng Thị Ngọc A với bên thuê ông Nguyễn Văn B có ký kết hợp đồng thuê nhà đối với căn nhà, phần cuối trang 5 của hợp đồng có ghi “…hợp đồng thuê nhà được lập thành 02 bản, mỗi bên giữ 01 bản có giá trị như nhau và có giá trị kể từ ngày 21/02/2019…”. Do đó, xác định ngày hai bên ký kết hợp đồng thuê nhà là ngày 21/02/2019. Hợp đồng thuê nhà giữa bà A và ông B có nội dung và hình thức phù hợp với quy định tại Điều 121 và Điều 122 Luật nhà ở năm 2014 nên có giá trị pháp lý.

[4] Xét bị đơn ông Nguyễn Văn B trình bày kể từ khi ông B rút đơn khởi kiện tòa án thay đổi địa vị của ông B từ nguyên đơn trở thành bị đơn Tòa án không triệu tập ông B làm việc với tư cách bị đơn, Hội đồng xét xử nhận định: Thời điểm ông B rút toàn bộ đơn khởi kiện, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành hòa giải và công khai chứng cứ và nguyên đơn đã rút toàn bộ đơn khởi kiện nên xác định nguyên đơn không có yêu cầu gì đối với bị đơn nên không cần thiết phải triệu tập nguyên đơn trình bày về vấn đề phản tố của bị đơn là đúng theo quy định pháp luật. Đối với yêu cầu bồi thường chi phí ban đầu vào nhà thuê của bị đơn đối với bà A, do bị đơn không có yêu cầu khởi kiện và yêu cầu phản tố nên hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét, nhưng nếu bị đơn có đầy đủ chứng cứ chứng minh có việc đầu tư sửa chữa nhà thuê là có thật thì có thể khởi kiện bà A bằng vụ kiện dân sự khác khi còn thời hiệu khởi kiện.

[5] Xét bị đơn ông Nguyễn Văn B khai, khi ông B thuê nhà của bà Hoàng Thị Ngọc A có cho ông Đỗ Đăng D và bà Nguyễn Thị G thuê lại, việc cho thuê lại này ông B có báo cho bà A biết nhưng đối với lời khai này của ông B phía nguyên đơn bà A không chấp nhận. Ngoài ra, bị đơn ông Nguyễn Văn B và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Đỗ Đăng D và bà Nguyễn Thị G trình bày quá trình cho thuê lại thì bà A đến cản trở, gây thiệt hại nên ông B không tiếp tục kinh doanh được. Tuy nhiên, ông B không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho trình bày của mình. Hơn nữa, trong khoảng thời gian từ ngày 24/4/2019 đến ngày 25/01/2021 ông B không thanh toán tiền thuê nhà, mặc dù khi ông B cho ông D, bà G thuê lại nhà ông D, bà G có thanh toán tiền thuê nhà cho ông B nhưng ông B vẫn không thanh toán tiền thuê nhà hàng tháng cho nguyên đơn theo đúng thỏa thuận hợp đồng thuê nhà nên tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà A, xác định ông Nguyễn Văn B đã vi phạm các điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng và vi phạm quy định pháp luật về nghĩa vụ của bên thuê nhà là có cơ sở, đồng thời buộc bị đơn ông Nguyễn Văn B phải tiếp tục thanh toán số tiền thuê nhà còn thiếu cho bà Hoàng Thị Ngọc A kể từ ngày 05/5/2019 đến ngày 25/01/2021 là 20 tháng x 29.000.000 đồng = 580.000.000 đồng là có căn cứ.

[6] Do ông B chậm thực hiện thanh toán tiền nhà cho bà A nên bà A yêu cầu phải trả lãi cho số tiền chậm thanh toán, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ Điều 2 của hợp đồng thuê nhà giữa bà A và ông B, hai bên thỏa thuận: “… Trả tiền mặt một lần vào ngày đầu tháng và không chậm quá 07 ngày … Nếu không thanh toán tiền đầy đủ đúng ngày bên A có quyền tính lãi 2% …” buộc ông B phải trả lãi đối với phần tiền nhà chậm thanh toán hàng tháng là đúng, nhưng do bà A chỉ yêu cầu lãi suất là 15%/năm tương đương 0,041/ngày là có lợi cho ông Nguyễn Văn B nên Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của bà A, buộc ông Nguyễn Văn B phải trả lãi chậm trả tính từ ngày 08/5/2019 đến ngày 27/9/2022 là 02 năm 04 tháng 20 ngày là 225.363.060 đồng, tổng cộng ông B phải thanh toán cho bà A tiền nhà còn nợ và tiền lãi chậm trả tính đến ngày 27/9/2022 là 805.363.060 đồng là đúng quy định pháp luật. Do đó, kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn B không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm là có cơ sở, nên được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

[8] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn B; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 343/2022/DS-ST ngày 27/9/2022 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình.

[9] Án phí phúc thẩm: Bị đơn ông Nguyễn Văn B phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Toà án phúc thẩm tuyên:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn B; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 343/2022/DS-ST ngày 27/9/2022 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh về việc “tranh chấp hợp đồng thuê nhà”;

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hoàng Thị Ngọc A: Buộc ông Nguyễn Văn B có trách nhiệm thanh toán cho bà Hoàng Thị Ngọc A tiền thuê nhà còn nợ và lãi suất chậm trả tính từ ngày 08/5/2019 đến ngày 27/9/2022 là 805.363.060 đồng (theo hợp đồng thuê nhà ngày 21/02/2019 đối với căn nhà), thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

3. Kể từ ngày 28/9/2022 cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất hai bên thỏa thuận trong hợp đồng thuê nhà (căn nhà ) nhưng không được vượt quá 20%/năm theo quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

4. Đình chỉ một phần yêu cầu của bà Hoàng Thị Ngọc A đối với ông Nguyễn Văn B về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại do đập phá nhà số tiền là 20.000.000 đồng.

5. Đình chỉ một phần yêu cầu của bà Hoàng Thị Ngọc A đối với ông Nguyễn Văn B về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn B trả lại cho bà A toàn bộ căn nhà Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

6. Đình chỉ toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B đối với bà Hoàng Thị Ngọc A về việc yêu cầu bà Hoàng Thị Ngọc A bồi thường tiền cọc, trả lại tiền nhận cọc và tiền đầu tư ban đầu của 02 hợp đồng thuê nhà ngày 21/02/2019 và ngày 25/4/2019 với tổng cộng là 641.000.000 đồng.

7. Đình chỉ yêu cầu của bà Hoàng Thị Ngọc A về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị G và ông Đỗ Đăng D trả lại cho bà Hoàng Thị Ngọc A toàn bộ căn nhà Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

 

Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật dân sự năm 2015: Điều 166; Khoản 2 Điều 357; khoản 1 Điều 468

– Bộ luật tố tụng dân sự 2015: khoản 1 Điều 273; Điều 228; Khoản 1 Điều 308

– Luật Nhà ở 2014:  Điều 121 và Điều 122

– Luật Thi hành án Dân sự: Điều 2, 6,7,7a,7b,9 và Điều 30

–  Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án

 

 5. Bản án số 826-2022-DS-PT Ngày 26.12.2022 của TAND TP. Hồ Chí Minh – Tranh chấp hợp đồng thuê nhà
6.      

 

 

 

 

 

 

 

Bản án số 11/2023/DS-PT Ngày 24/02/2023  của TAND tỉnh Sơn La

 

Bản án số 11/2023/DS-PT Ngày 24/02/2023  của TAND tỉnh Sơn La về Kiện đòi tiền thuê nhà

Thông tin chung

– Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

– Cấp xét xử: Phúc thẩm

– Loại vụ/việc: Dân sự

– Tòa án xét xử: TAND tỉnh Sơn La

– Áp dụng án lệ: Không

– Thông tin về vụ/việc: Y án sơ thẩm

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ngày 20/9/2019, anh có cho chị Bùi Thị L, trú tại Bản C, xã E, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La thuê nhà vị trí thuộc trục đường Quốc lộ 6 thuộc Bản C, xã E, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Thời hạn thuê nhà là 01 năm kể từ ngày ký, với giá thuê là 40.000.000 đồng/01 năm, có làm hợp đồng thuê nhà. Sau khi thuê nhà, chị L chưa trả tiền thuê nhà, đến ngày 20/9/2020 khi vợ anh là chị Trần Thị T xuống nhà hỏi tiền thì chị L mới thanh toán hợp đồng là 19.000.000 đồng, sau khi thanh toán chị L đã ghi vào hợp đồng thuê nhà. Số tiền còn thiếu của hợp đồng thuê từ ngày 20/9/2019 đến ngày 20/9/2020 là 21.000.000 đồng. Sau đó, chị L tiếp tục sử dụng căn nhà cho thuê nhưng hai bên không lập thành hợp đồng, do quen biết nên các bên chỉ thực hiện hợp đồng bằng miệng với nhau giá thuê từ ngày 20/9/2020 đến ngày 20/9/2021 cũng là 40.000.000 đồng. Đối với hợp đồng miệng chị L mới chỉ thanh toán 20.000.000 đồng vào ngày 10/02/2021; các lần giao tiền hai bên không làm giấy tờ gì. Tổng cộng số tiền mà chị L mới thanh toán của cả hai năm thuê nhà là 39.000.000 đồng. Tổng cộng cả hai năm chị L còn thiếu tiền thuê nhà là 41.000.000 đồng, anh Đ và chị T đã đòi nhiều lần nhưng chị L không trả. Nay anh yêu cầu chị L phải trả nốt số tiền thuê nhà trên cho vợ chồng anh, chị.

Toà án sơ thẩm tuyên: 

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Mùa A Đ về việc đòi tiền thuê nhà. Buộc chị Bùi Thị L phải trả cho anh Mùa A Đ số tiền thuê nhà chưa thanh toán là 21.000.000 đồng.

Nhận định của Tòa Phúc Thẩm

[1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn anh Mùa A Đ khởi kiện yêu cầu chị Bùi Thị L thanh toán số tiền thuê nhà còn lại theo các hợp đồng đã giao kết giữa các bên từ năm 2019 đến năm 2021. Anh Mùa A Đ và chị Bùi Thị L đều thừa nhận sau khi hết thời hạn giao kết hợp đồng thuê nhà là ngày 20/9/2021 thì bên thuê nhà là chị L đã trả lại nhà cho bên cho thuê anh Đ quản lý, sử dụng và không có tranh chấp về các điều khoản trong các hợp đồng thuê nhà nên Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật là Kiện đòi tiền thuê nhà xét thấy có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn chị Bùi Thị L kháng cáo trong hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm nên kháng cáo được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về xác định tư cách tham gia tố tụng: Căn cứ nội dung hợp đồng và thành phần tham gia giao kết hợp đồng, quá trình thực hiện hợp đồng thì bên cho thuê là anh Mùa A Đ, chị Trần Thị T (vợ anh Đ) và bên thuê là chị Bùi Thị L, anh Đoàn Tăng D (chồng chị L). Tòa án sơ thẩm xác định chị T và anh D là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chưa chính xác, cần phải xác định chị Trần Thị T là đồng nguyên đơn, anh Đoàn Tăng D là đồng bị đơn. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm các bên đương sự đều có mặt và được trình bày ý kiến quan điểm tại phiên tòa – chị T thống nhất với ý kiến về việc giải quyết vụ án của anh Đ, anh D thống nhất ý kiến về việc giải quyết vụ án với chị L do đó quyền lợi của các đương sự vẫn được đảm bảo.

[3] Xét nội dung đơn kháng cáo của bị đơn chị Bùi Thị L, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về nội dung hợp đồng và việc thực hiện hợp đồng, các bên đương sự đều xác nhận có việc giao kết hợp đồng thuê nhà. Bên cho thuê là anh Mùa A Đ, chị Trần Thị T, bên thuê là chị Bùi Thị L, anh Đoàn Tăng D. Trực tiếp thực hiện các giao kết thuê nhà là chị Bùi Thị L, anh Mùa A Đ và người nhận tiền thanh toán từ chị L là chị Trần Thị T. Thời điểm thuê nhà từ năm 2017, mục đích chị L thuê để kinh doanh. Việc thanh toán giá trị các hợp đồng từ năm 2017 đến ngày 20/9/2019 các bên đều đã thanh toán xong.

Từ ngày 20/9/2019, anh Đ và chị L có giao kết hợp đồng cho thuê nhà viết tay, thời hạn thuê là 01 năm kể từ ngày 20/9/2019 đến 20/9/2020, tiền thuê là

40.000.000đ/01 năm, bên thuê Bùi Thị L đã thanh toán cho bên cho thuê số tiền 19.000.000 đồng được ghi vào hợp đồng thuê nhà (bút lục số 05) và hẹn số tiền cho thuê còn lại “đến tháng 12 âm trả nốt”.

Sau khi hết hạn hợp đồng thuê nhà ngày 20/9/2020, các bên tiếp tục giao kết hợp đồng thuê nhà nhưng chỉ giao kết bằng miệng, thời hạn thuê từ ngày 20/9/2020 đến 20/9/2021, tiền thuê là 40.000.000đ/01 năm. Ngày 10/02/2021, chị L giao cho chị T số tiền 20.000.000 đồng, các lần giao tiền đều không làm giấy tờ. Số tiền thuê nhà còn lại do nhiều lần đòi chị L không trả nên anh Đ đã chấm dứt việc thuê nhà và chị L trả lại nhà cho anh Đ quản lý, sử dụng.

Việc thanh toán tiền thuê nhà: Số lần và số tiền thuê nhà được cả hai bên đương sự thống nhất như sau, lần thứ nhất số tiền 19.000.000 đồng được chị Bùi Thị L ghi vào giấy cho thuê nhà, không ghi cụ thể ngày trả. Lần thứ hai là ngày 10/02/2021, chị L giao cho chị T 20.000.000 đồng. Tổng cộng là 39.000.000 đồng. Đối với số tiền 19.000.000 đồng được chị Bùi Thị L ghi vào giấy cho thuê nhà mặc dù các bên không thống nhất lời khai về thời điểm trả (chị L cho rằng trả vào ngày 20/9/2019, anh Đ, chị T cho rằng trả ngày 20/9/2020) nhưng đều thống nhất về số tiền trả do đó bản án sơ thẩm chấp nhận là có căn cứ.

Ngoài số tiền thuê nhà 39.000.000 đồng mà các đương sự đều thống nhất xác nhận đã thanh toán, Tòa án sơ thẩm còn chấp nhận chị L đã thanh toán số tiền 20.000.000 đồng của hợp đồng ngày 20/9/2019 đến 20/9/2020 vào ngày 24/01/2020 là có căn cứ vì: Quá trình giao nhận tiền ngoài các bên đương sự còn có chị Giàng Thị M chứng kiến, tại các lời khai (bút lục số 68-69) chị M khẳng định được chứng kiến nhiều lần việc chị L giao tiền cho chị T vào năm 2017 và năm 2018. Còn ngày 24/01/2020, khi xuống nhà chị L chơi có chứng kiến việc chị T sang nhà chị L lấy tiền thuê nhà.

Đối với số tiền thuê nhà phải thanh toán còn lại là 21.000.000 đồng ngoài lời khai chị L không có căn cứ, tài liệu nào khác chứng minh việc đã thanh toán. Do đó buộc chị L phải có trách nhiệm trả số tiền trên cho anh Đ.

Chị Bùi Thị U là người làm chứng khai (bút lục số 40) có được chứng kiến chị L thanh toán tiền thuê nhà cho chị T các lần: Năm 2017 số tiền 39.000.000 đồng; lần thứ hai ngày 20/9/2020 số tiền 20.000.000 đồng; lần thứ ba ngày 10/2/2021 số tiền 19.000.000 đồng. Lời khai của chị U không có đủ căn cứ chấp nhận vì năm 2017 các bên đương sự đều thừa nhận đã thanh toán hết giá trị hợp đồng. Còn các lần thanh toán ngày 20/9/2020 và 10/02/2021 thì nguyên đơn cũng đã xác nhận việc thanh toán.

Từ những nhận định, phân tích nêu trên, không chấp nhận kháng cáo của chị Bùi Thị L, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí: Bị đơn chị Bùi Thị L phải chịu án phí phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 273 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Toà án phúc thẩm tuyên:

1. Không chấp nhận kháng cáo của chị Bùi Thị L, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 01/2022/DS-ST ngày 19/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Mùa A Đ về việc đòi tiền thuê nhà. Buộc chị Bùi Thị L phải trả anh Mùa A Đ số tiền thuê nhà chưa thanh toán là 21.000.000 đồng (hai mươi mốt triệu đồng).

3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, bên phải thi hành án còn phải chịu một khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành.

4. Về án phí: Chị Bùi Thị L phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0000026 ngày 30/9/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.

Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật dân sự năm 2015: Điều 275; 351, 352, 353, 357, 481

– Bộ luật tố tụng dân sự 2015: khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 146, khoản 4 Điều 147, Điều 165 Điều 228, Điều 273, Khoản 1 Điều 308, Khoản 1 Điều 148, Điều 280

– Luật Thi hành án Dân sự: Điều 2, 6,7,,9 và Điều 30

– Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Khoản 1 Điều 29

 

 6. Bản án số 11-2023-DS-PT Ngày 24.02.2023 của TAND tỉnh Sơn La – Kiện đòi tiền thuê nhà

 

 

 

 

 

 

 

 

7.      

 

 

 

 

 

 

Bản án số 305/2022/DSPT Ngày 15/12/2022 của TAND TP. Cần Thơ

 

Bản án số 305/2022/DSPT Ngày 15/12/2022 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp đòi lại quyền sở hữu nhà ở và tiền thuê nhà

Thông tin chung

– Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

– Cấp xét xử: Phúc thẩm

– Loại vụ/việc: Dân sự

– Tòa án xét xử: TAND TP. Cần Thơ

– Áp dụng án lệ: Không

– Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp quyền sở hữu nhà

 

Tóm tắt nội dung vụ án:

Vào năm 2004, mẹ ruột ông Lý Thái Q là bà Lưu Thị Ch (đã chết) có cho ông xây dựng căn nhà bằng gỗ diện tích khoảng 72m2, tọa lạc tại tổ 9, khu vực Lợi Nguyên B, phường J, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, toàn bộ phần nhà nằm trong quy hoạch của Quốc lộ 91B. Sau khi xây dựng xong ông có trực tiếp sinh sống từ ngày 23/11/2004 đến ngày 10/8/2008 và cho bà Trần Thị Lệ Th thuê 02 năm căn nhà này. Việc cho thuê có lập thành hợp đồng và được xác nhận của chính quyền địa phương để mở tiệm game. Đến lần hợp đồng lần thứ hai, thời gian thuê cũng là 02 năm từ ngày 10/8/2010 đến ngày 10/8/2012, với giá tiền thuê nhà là 5.000.000 đồng/tháng. Ông đã nhận được hai tháng rưỡi tiền nhà của bà Th với số tiền là 12.500.000 đồng. Cũng trong thời gian này do ông có vay tiền của chị ruột là bà Lý Mỹ L với số tiền 87.500.000 đồng nên đã thỏa thuận giao cho bà L tiếp tục thu tiền thuê nhà để khấu trừ nợ vay. Ông đã bàn giao bản hợp đồng thuê nhà lần hai và sổ tạm trú nhà cho bà L để thuận lợi trong việc thu tiền nhà. Số tiền thuê nhà thu được sẽ được khấu trừ dần vào tiền vay như sau: 87.500.000 đồng/17,5 tháng + 12.500.000 đồng/2,5 tháng = 100.000.000 đồng tương đương với 20 tháng. Đối với 04 tháng tiền thuê nhà còn lại ông cho bà L thu xem như tiền lãi là 20.000.000 đồng/04 tháng.

Đến ngày 10/8/2012 là thời điểm chấm dứt hợp đồng thuê nhà lần hai, bà L mượn cớ cho rằng căn nhà đã mục nát để xây dựng lại cho ông. Trong thời gian này ông đang sinh sống tại Trà Vinh, hoàn cảnh kinh tế khó khăn cũng như tin tưởng chỗ chị em ruột nên cho sửa lại căn nhà. Tuy nhiên, sau khi sửa lại nhà thì bà L đã chiếm hữu luôn căn nhà và cho ông Lý Văn Nh thuê đến thời điểm hiện tại. Vì vậy, ông khởi kiện buộc bà Lý Mỹ L trả lại căn nhà có diện tích 78m2, tọa lạc tại cạnh số 305L, đường Nguyễn Văn Linh, phường H, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Đồng thời, buộc bà Lý Mỹ L phải trả tiền thuê nhà từ ngày 10/8/2012 đến ngày khởi kiện là 54 tháng, giá thuê 5.000.000 đồng/tháng, thành tiền là 270.000.000 đồng.

Bị đơn cho rằng, Việc ông Q cho bà Th thuê nhà thì bà không đồng ý, vì nhà này xây dựng trên phần đất của bà. Tuy nhiên, ông Q cho rằng hoàn cảnh kinh tế khó khăn và đã nhận trước 2,5 tháng tiền thuê của bà Th với số tiền 12.500.000 đồng nên vì tình nghĩa chị em và để giải quyết khó khăn cho ông Q nên bà có cho ông Q vay thêm 87.500.000 đồng + 12.500.000 đồng = 100.000.000 đồng. Sau đó thì bà là người nhận tiền thuê nhà từ bà Trần Thị Lệ Th cho đến khi kết thúc hợp đồng. Đến nay ông Q vẫn chưa trả số tiền 100.000.000 đồng này. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bà không đồng ý, bởi lẽ ông Q đã thừa nhận căn nhà gỗ do ông xây dựng bị hư mục xuống cấp nên bà đã bỏ tiền ra xây dựng nhà mới và tiếp tục cho thuê đến nay. Như vậy, căn nhà trên đất là do bà xây dựng trên phần quyền sử dụng đất hợp pháp của mình, đồng thời việc cho người nào thuê là quyền và lợi ích chính đáng của bà, không liên quan đến ông Q.

Toà án sơ thẩm tuyên: 

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lý Thái Q về việc buộc bà Lý Mỹ L trả lại căn nhà có diện tích 72m2 (ngang 4m x dài 18m), tọa lạc tại cạnh số 305L, đường G, phường H, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ và trả lại tiền thuê nhà 270.000.000 đồng.

2. Về chi phí thẩm định tại chỗ: Nguyên đơn ông Lý Thái Q phải chịu

3. 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) đã nộp tạm ứng và chi xong nên không phải nộp thêm.

4. Về án phí: Nguyên đơn ông Lý Thái Q phải chịu 13.800.000 đồng, được khấu trừ 9.250.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 003836 ngày 12/5/2017 nên phải nộp thêm số tiền 4.550.000 đồng (Bốn triệu, năm trăm năm mươi nghìn đồng).

Nhận định của Tòa Phúc Thẩm

Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, nguyên đơn yêu cầu hủy án sơ thẩm vì cho rằng bản án sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng cũng như nội giải quyết vụ án mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, cụ thể:

Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn cho rằng việc Tòa án cấp sơ thẩm tách quan hệ tranh chấp thành 02 vụ án dân sự để giải quyết là không đúng qui định của pháp luật, không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Xét thấy: Theo đơn khởi kiện ngày 06/3/2017 và đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 10/3/2021 nguyên đơn yêu cầu “buộc bị đơn bà L trả căn nhà thuộc cạnh 305L, Quốc lộ 91B, tổ 10, khu vực 3, phường H, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ; đồng thời buộc bị đơn trả tiền thuê số tiền 270.000.000 đồng và yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số BI387018 cấp ngày 17/7/2012 cho bà Lý Mỹ L”. Đối với yêu cầu yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 14/11/2011 và Phụ lục hợp đồng ngày 29/5/2012 giữa bà Lưu Thị Ch với bà Lý Mỹ L được công chứng tại Văn phòng Công chứng 24h, nguyên đơn yêu cầu tại phiên tòa sơ thẩm là vượt quá yêu cầu khởi kiện. Do đó Hội đồng xét xử sơ thẩm không xem xét và dành quyền khởi kiện cho nguyên đơn trong vụ án khác là có cơ sở;

Về nội dung: Đối với yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Hội đồng xét xử xét thấy Cơ quan đăng ký đất đai cấp giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số BI387018 cấp ngày 17/7/2012 cho bà Lý Mỹ L là dựa trên Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 14/11/2011 và Phụ lục hợp đồng ngày 29/5/2012 giữa bà Lưu Thị Ch với bà Lý Mỹ L được công chứng tại Văn phòng Công chứng 24h. Theo quy định của luật Đất đai và Nghị định số 43/2014/NĐ – CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ quy định việc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc xác nhận nội dung biến động trong trường hợp thực hiện hợp đồng là thủ tục hành chính trong giao dịch dân sự, không mang tính chất của quyết định hành chính cá biệt; Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền sẽ thực hiện việc đăng ký biến động, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở kết quả giao dịch có hiệu lực. Do đó, khi giải quyết về tranh chấp hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất trường hợp tuyên bố hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất vô hiệu thì không cần phải tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mà căn cứ vào quyết định của Tòa án, cơ quan đăng ký đất đai điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông Q cho rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà L là không đúng vì hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất không đảm bảo quyền tặng cho của các đồng sở hữu. Như vậy, bản chất của yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải là yêu cầu tuyên bố Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Lưu Thị Ch với bà Lý Mỹ L vô hiệu. Tuy nhiên, quá trình xét xử sơ thẩm ông Q không có đơn yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Ch với bà L vô hiệu nên cấp sơ thẩm chưa xem xét. Do đó, bản án sơ thẩm nhận định tách yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Ch với bà L thành vụ kiện khác và giải quyết yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong cùng vụ án này là có cơ sở.

Luật sư nguyên đơn cho rằng, cấp sơ thẩm không làm rõ nguồn gốc phần đất bà Lý Mỹ L đứng tên quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, trong phạm vi khởi kiện kiện nguyên đơn chỉ yêu cầu tranh chấp về tài sản gắn liền với đất, tiền thuê nhà và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đối với yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như đã nhận định trên sẽ được giải quyết trong cùng vụ vụ án yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vô hiệu nên trong vụ án này chưa xem xét về nguồn gốc đất. Vì vậy, nội dung kháng cáo của nguyên đơn như trên là không có cơ sở xem xét.

Đối với việc không gửi thông báo thụ lý vụ án cho nguyên đơn của cấp sơ thẩm là có vi phạm thủ tục tố tụng. Tuy nhiên thông báo thụ lý vụ án thể hiện nội dung đúng với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cũng như trong quá trình giải quyết phía nguyên đơn cũng tiếp cận được văn bản này. Mặt khác, việc vi phạm này không ảnh hưởng đến nội dung giải quyết vụ vụ án nên không cần Thiết phải hủy bản án dân sự sơ thẩm.

Từ những cơ sở trên cho thấy yêu cầu kháng cáo của ông Q là không có cơ sở chấp nhận.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ là chưa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không chấp nhận

Về án phí dân sự phúc thẩm ông Q phải chịu theo quy định pháp luật.

Toà án phúc thẩm tuyên:

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Lý Thái Q.

2. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 97/2022/DS – ST ngày 23/6/2022 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lý Thái Q về việc buộc bà Lý Mỹ L trả lại căn nhà có diện tích 72m2 (ngang 4m x dài 18m), tọa lạc tại cạnh số 305L, đường Nguyễn Văn Linh, phường H, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ và trả lại tiền thuê nhà 270.000.000 đồng (hai trăm bảy mươi triệu đồng).

4. Về chi phí tố tụng: chi phí thẩm định tại chỗ là 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng). Nguyên đơn ông Lý Thái Q phải chịu đã nộp tạm ứng và chi xong nên không phải nộp thêm.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn ông Lý Thái Q phải chịu 13.800.000 đồng, (mười ba triệu tám trăm nghìn đồng) được khấu trừ 9.250.000 đồng (chín triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 003836 ngày 12/5/2017 nên ông Q phải nộp thêm số tiền 4.550.000 đồng (Bốn triệu, năm trăm năm mươi nghìn đồng).

6. Về án phí dân sự phúc thẩm: 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) ông Lý Thái Q phải chịu. Ông Q được chuyển tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số 0000734 ngày 01/7/2022 thành án phí.

Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật tố tụng dân sự 2015:  khoản 3 Điều 308; Điều 285, 286,287,294,308,51, 70,71

– Luật Thi hành án Dân sự: Điều 2, 6,7,7a,7b,9 và Điều 30

– Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Điều 29

 

 

 

 

 

 

 

 

 7. Bản án số 305-2022-DSPT Ngày 15.12.2022 của TAND TP. Cần Thơ – tranh chấp đòi lại quyền sở hữu nhà ở và tiền thuê nhà

8.     Bản án số 260/2022/DS-PT Ngày 26/12/2022 của TAND tỉnh Đắk Lắk  

Bản án số 260/2022/DS-PT Ngày 26/12/2022 của TAND tỉnh Đắk Lắk về Tranh chấp kiện đòi nhà, đất  cho thuê và đòi tài sản

Thông tin chung

– Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

– Cấp xét xử: Phúc thẩm

– Loại vụ/việc: Dân sự

– Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk

– Áp dụng án lệ: Không

– Thông tin về vụ/việc: 1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Lê Thị Thanh H3 là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Trần Thị Thanh H2. 2. Tuyên xử: 2.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Công H1. Buộc bị đơn bà Trần Thị Thanh H2 và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Phan Xuân Tr, bà Lê Thị Thanh H3, bà Lê Thị Thanh Tr1, bà Phan Thị Thanh H5 phải có nghĩa vụ giao trả cho vợ chồng bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Công H1 căn nhà, đất tọa lạc tại địa chỉ số 05 Đường M, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Khách sạn Viễn Đông); theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 358593, thửa đất số 237, tờ bản đồ số 26, diện tích 224 m2, đất tọa lạc tại phường L, thành phố B, do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 05/5/2017 mang tên bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Công H1 và tài sản gắn liền với đất: Diện tích sàn 742,2 m2; diện tích xây dựng tầng trệt 211,4 m2; kết cấu: Nhà ở 04 tầng: 01 trệt, 01 lửng, 03 lầu. Móng cột, khung, sàn là bê tông cốt thép, tường xây gạch, mái lợp tôn màu, nền lát gạch Ceramic, theo giấy phép xây dựng số 01/GPXD do UBND TP. Buôn Ma Thuột cấp ngày 03/01/2008. 2.2. Tuyên hủy một phần bản án dân sự sơ thẩm số 93/2022/DS-ST ngày 11/8/2022 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về phần bác yêu cầu phản tố của bị đơn bà Trần Thị Thanh H2 về việc yêu cầu bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Công H1 phải trả số tiền 1.200.000.000 đồng và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.

Tóm tắt nội dung vụ án:

Bà Phạm Thị H và bà Trần Thị Thanh H2 có quan hệ quen biết, thân quen với nhau. Bà H2 có nói với bà H là đang vay ngân hàng, đến hạn không có tiền trả nên ngân hàng khởi kiện. Bà H2 có bán nhà và đất tại địa chỉ: Số 05 Đường M, phường L, thành phố B nhưng không ai mua. Vì muốn giúp bà H2 nên bà H có vay 152 cây vàng để mua căn nhà trên giúp bà H2. Thủ tục sang nhượng đã hoàn tất. Tuy nhiên vì tình cảm nên ngày 24/4/2017 vợ chồng bà H và bà H2 và các con của bà H2 có lập 01 văn bản thỏa thuận với nhau, nội dung: Gia đình bà H2 lập văn bản thỏa thuận chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số tại phường L, thành phố B; đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 358593 ngày 26/12/2006 cho bà H, ông H1. Thống nhất, giá chuyển nhượng căn nhà và đất trên là 152 cây vàng SJC, trong thời gian 03 năm, bên A (gia đình bà H2) trả đủ số vàng trên thì bên B (Bà H, ông H1) sẽ có trách nhiệm chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà trên lại cho bà Lê Thị Thanh H3 là con gái của bà Trần Thị Thanh H2. Nếu bên A không trả đủ số vàng trên thì cả 2 bên cùng nhau chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà trên theo giá tại thời điểm bán; đồng thời, bên A phải trả lại cho bên B 152 cây vàng SJC mà bên B đã giao cho bên A.  Sau đó bà H2 và bà H thống nhất hủy văn bản thỏa thuận 24/4/2017, tuy nhiên bà H2 và các con ép bà H phải trả theo giá thị trường là 9 tỷ, lúc đó bà H thấy bà H2 bị các con nợ ép quá nên bà H đã thống nhất cùng các con của bà H2 lập văn bản thỏa thuận đề ngày 01/3/2019, thỏa thuận với nội dung: Tạm thời định giá tài sản nhà và đất (Khách sạn Viễn Đông) tại địa chỉ: Số 05 Đường M, phường L, thành phố B với giá 9.000.000.000đồng tổng cộng bà H đã trả cho bà H2 tiền mua nhà là 7.800.000.000 đồng. Bà H mua xong và cho bà H2 thuê lại nhà 01 tháng là 20.000.000 đồng, thời gian thuê là 6 tháng. Sau đó bà H2 không trả tiền thuê nhà và không trả lại nhà vì vậy bà H khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột để đòi nhà, đòi tiền thuê nhà và đã được Tòa án giải quyết công nhận thỏa thuận bằng Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 41/2019/QĐ- ST ngày 18/4/2019 với nội dung bà H2 phải trả tiền thuê nhà cho bà H với số tiền 360.000.000đồng.

Đến nay, gia đình bà H2 vẫn đang ở tại căn nhà mà không trả tiền thuê cũng như nhà cho gia đình bà H. Vì vậy, bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Trần Thị Thanh H2 phải có trách nhiệm trả lại căn nhà và đất tại phường L, thành phố B cho vợ chồng bà H.

Đối với yêu cầu khởi kiện phản tố của bị đơn bà Trần Thị Thanh H2 buộc vợ chồng bà H phải trả số tiền 1.200.000.000 đồng thì mới giao nhà cho gia đình bà H thì bà H không đồng ý. Bà H đã trả đủ số tiền 1.200.000.000 đồng cho bà H2. Trả trực tiếp cho bà H2 900.000.000 đồng, còn lại số tiền 300.000.000 đồng ngày 09/3/2019 con bà H là H4 và T đã trả đủ cho cháu T1, Tr1. Vì vậy bà H2 và T1, Tr1 đã ký vào giấy vay tiền ngày 01/3/2019 công nhận bà H đã trả hết nợ mua khách sạn. Vì vậy, bà H không đồng ý với yêu cầu phản tố của bà H2.

Bị đơn bà Trần Thị Thanh H2 có đơn khởi kiện yêu cầu phản tố buộc bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Công H1 phải trả số tiền 1.200.000.000 đồng, sau khi bà H, ông H1 trả đủ số tiền 1.200.000.000 đồng thì gia đình bà H2 sẽ bàn giao nhà cho bà H. Trường hợp nếu không trả cho gia đình bà H2 số tiền 1.200.000.000 đồng thì bên bà H phải để gia đình bà H3 bán căn nhà (khách sạn) để trả cho bà H số tiền 7.800.000.000 đồng và trả tiền lãi suất theo lãi suất ngân hàng theo nội dung các bên thỏa thuận tại Văn bản thỏa thuận ngày 01/3/2019.

Toà án sơ thẩm tuyên: 

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Công H1.

2. Buộc bị đơn bà Trần Thị Thanh H2 và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Phan Xuân Tr, bà Lê Thị Thanh H3, bà Lê Thị Thanh Tr1, bà Phan Thị Thanh H5 phải có nghĩa vụ giao trả cho vợ chồng bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Công H1 căn nhà, đất tọa lạc tại địa chỉ số 05 Đường M, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Khách sạn Viễn Đông); theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 358593, thửa đất số 237, tờ bản đồ số 26, diện tích 224 m2, đất tọa lạc tại phường L, thành phố B, do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 05/5/2017 mang tên bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Công H1 và tài sản gắn liền với đất: Diện tích sàn 742,2 m2; diện tích xây dựng tầng trệt 211,4 m2; kết cấu: Nhà ở 04 tầng: 01 trệt, 01 lửng, 03 lầu. Móng cột, khung, sàn là bê tông cốt thép, tường xây gạch, mái lợp tôn màu, nền lát gạch Ceramic, theo giấy phép xây dựng số 01/GPXD do UBND TP. Buôn Ma Thuột cấp ngày 03/01/2008.

3. Bác yêu cầu khởi kiện phản tố của bị đơn bà Trần Thị Thanh H2 về việc yêu cầu bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Công H1 phải trả số tiền 1.200.000.000 đồng.

Nhận định của Tòa Phúc Thẩm

[1] Về tố tụng: Bà Lê Thị Thanh H3 là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Trần Thị Thanh H2 làm đơn kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn luật định và đã nộp tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm nên vụ án được giải quyết theo thủ tục phúc thẩm là phù hợp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Do có mối quan hệ quen biết nên bà Trần Thị Thanh H2 có vay tiền của bà Phạm Thị H nhiều lần. Do không có khả năng trả nợ nên ngày 14/4/2017 bà Trần Thị Thanh H2 và ông Phan Xuân Tr lập hợp đồng chuyển nhượng cho ông Phan Công H1 và bà Phạm Thị H thửa đất số 237, tờ bản đồ 26, diện tích 224m2 tại phường L, thành phố B; đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 358593 ngày 26/12/2006, thay đổi chủ do văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất – Phòng Tài nguyên và môi trường thành phố Buôn Ma Thuột xác nhận ngày 12/3/2007 cho ông Phan Xuân Tr và bà Trần Thị Thanh H2. Giá chuyển nhượng theo hợp đồng là 1.500.000.000 đồng, hợp đồng được công chứng tại Phòng công chứng số 1 tỉnh Đắk Lắk. Ngày 05/5/2017, ông Nguyễn Công H1 và bà Phạm Thị H được Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất số CH 668159, thửa đất số 237, tờ bản đồ 26, diện tích 224 m2 tại phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Ngày 29/6/2017, doanh nghiệp tư nhân Triệu Phú do bà H2 làm chủ đứng ra ký hợp đồng thuê quyền sử dụng đất với ông Nguyễn Công H1 và bà Phạm Thị H. Như vậy, có đủ căn cứ xác định quyền sử dụng đất và các tài sản trên thửa đất số 237 trên thuộc quyền quản lý, sử dụng hợp pháp của bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Công H1. Hiện bà Trần Thị Thanh H2 (chủ doanh nghiệp Triệu Phú) thuê lại nhưng chưa bàn giao mặc dù đã hết thời hạn thuê. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã phân tích, nhận định và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn bà H2 và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Tr, bà H3, bà Tr1, bà H5 phải bàn giao quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 668159 và tài sản trên đất cho bà H, ông H1 là phù hợp.

[2.2] Xét kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Lê Thị Thanh H3, thấy rằng: Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đều thống nhất số tiền sau khi khấu trừ tiền mua khách sạn Viễn Đông, bà H còn phải thanh toán cho bà H2 số tiền 1,2 tỷ đồng chênh lệch. Bị đơn bà H2 và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Tr, bà H3, bà Tr1, bà H5 đều thống nhất sẽ đồng ý giao khách sạn cho bà H, ông H1 nêu ông bà thanh toán cho gia đình bà số tiền 1,2 tỷ đồng còn lại. Hiện tại bà H, ông H1 chưa trả cho gia đình bà H2 số tiền trên nên bà H2 có yêu cầu phản tố buộc bà H, ông H1 trả cho bà số tiền trên. Bà H cho rằng đã trả đủ số tiền 1,2 tỷ đồng trên cho bà H2 nên nay không đồng ý yêu cầu phản tố của của bà H2. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định tại giấy vay tiền (bút lục 114) thể hiện dòng chữ bà H đã trả thêm cho bà H2 950.000.000 đồng; trả cho bà H2 thông qua vợ chồng T1, Tr1 số tiền 300.000.000 đồng nên kết luận bà H đã trả đủ số tiền 1,2 tỷ đồng trên là chưa đủ cơ sở vững chắc, bỡi lẽ:

[2.2.1] Tại giấy vay tiền đề ngày 01/3/2019 thể hiện: Vợ chồng ông Trần Hữu T và bà Nguyễn Thanh Kim H4 có vay của bà Lê Thị Thanh Tr1 và ông Nguyễn Công T1 số tiền 300 triệu đồng. Hẹn đến 17h ngày 01/3/2019 trả lại. Tại biên bản lấy lời khai ngày 14/7/2022 (bút lục 98), bà H thừa nhận bà H có viết chèn thêm nhiều nội dung vào giấy vay tiền trên. Bà H2, bà Tr1 đều không biết có việc chèn thêm nội dung trên và cũng không ký xác nhận vào những nội dung được chèn thêm trên nhưng Tòa án cấp sơ thẩm cũng không tiến hành đối chất làm rõ, chỉ căn cứ vào lời khai của nguyên đơn để khẳng định việc bà H đã trả đủ tiền là chưa đủ căn cứ.

[2.2.2] Mặt khác, tại các lời khai của bà H về việc trả số tiền còn nhiều mâu thuẫn: Tại bản tự khai đề ngày 24/5/2022 (bút lục số 85), bà H khai: “tôi đã trả đủ số tiền 1.200.000.0000 đồng (một tỷ hai trăm triệu), trả cho bà H2 900.000.000 triệu vào thời điểm 01/3/2019 đến ngày 08/3/2019 (trả trực tiếp cho bà H2), còn lại 300 triệu bà H2 thấy tôi nợ nhiều không vay được nữa nên đã bắt con gái và con rể tôi là Nguyễn Thanh Kim H4 và Trần Hữu T nhận nợ của Tài +Tr1 – con rể và con gái bà H2. Vào ngày 09/3/2019 con tôi đã trả 300 triệu cho Tài và Tr1”. Tuy nhiên tại bản tự khai bổ sung ngày 27/5/2022, bà H lại trình bày số tiền 1,2 tỷ đồng bà trả cho bà H2 cụ thể: “Trả cho bà H6: 240 triệu đồng; trả cho bà L 400 triệu đồng; Bà H2 đồng ý trừ vào tiền bà H2 còn nợ tiền thuê khách sạn: 360 triệu đồng; ông T, bà H4 trả cho T1, Tr1 theo yêu cầu của bà H2 300 triệu đồng”. Việc bà H khai có trả tiền cho bà H2 thông qua những chủ nợ khác của bà H2 là bà Tạ Thị H6 240 triệu đồng và bà Nguyễn Thị L số tiền 400 triệu đồng, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm cũng không Tr tập bà H6, bà L để làm rõ số tiền trên được trả vào thời gian nào, có trả thay cho bà H2 không để xác định bà H đã trả cho bà H2 số tiền 1.200.000.000 đồng hay không là thiếu sót.

[2.2.3] Ngoài ra, đối với số tiền 300.000.000 đồng mà bà H4, ông T vay của bà Tr1, ông Tài được thể hiện trong giấy vay tiền ngày 01/3/2019, Tòa án cấp sơ thẩm cũng chưa làm rõ khoản tiền trên có nằm trong số tiền 600.000.000 đồng mà các bên thỏa thuận hay không: “… hôm nay bên B bàn giao khách sạn cho bên A sau khi bên A đưa thêm 600 triệu đồng. Tổng cộng bên A đưa cho bên B là 7.800.000.000đồng”.

[3] Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy, bản án sơ thẩm thu thập, xác minh chứng cứ chưa đầy đủ, thiếu người tham gia tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, cần chấp nhận một phần kháng cáo của bà Lê Thị Thanh H3 là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Trần Thị Thanh H2, hủy một phần bản án dân sự sơ thẩm số 93/2022/DS-ST ngày 11/8/2022 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về phần giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn bà Trần Thị Thanh H2.

[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên người kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho bà Lê Thị Thanh H3 là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Trần Thị Thanh H2 số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí mà bà H3 đã nộp theo biên lai số 0021191 ngày 25/8/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Toà án phúc thẩm tuyên:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Công H1.

2. Buộc bị đơn bà Trần Thị Thanh H2 và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Phan Xuân Tr, bà Lê Thị Thanh H3, bà Lê Thị Thanh Tr1, bà Phan Thị Thanh H5 phải có nghĩa vụ giao trả cho vợ chồng bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Công H1 căn nhà, đất tọa lạc tại địa chỉ số 05 Đường M, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Khách sạn Viễn Đông); theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 358593, thửa đất số 237, tờ bản đồ số 26, diện tích 224 m2, đất tọa lạc tại phường L, thành phố B, do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 05/5/2017 mang tên bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Công H1 và tài sản gắn liền với đất: Diện tích sàn 742,2 m2; diện tích xây dựng tầng trệt 211,4 m2; kết cấu: Nhà ở 04 tầng: 01 trệt, 01 lửng, 03 lầu. Móng cột, khung, sàn là bê tông cốt thép, tường xây gạch, mái lợp tôn màu, nền lát gạch Ceramic, theo giấy phép xây dựng số 01/GPXD do UBND TP. Buôn Ma Thuột cấp ngày 03/01/2008.

3. Tuyên hủy một phần bản án dân sự sơ thẩm số 93/2022/DS-ST ngày 11/8/2022  của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về phần bác yêu cầu phản tố của bị đơn bà Trần Thị Thanh H2 về việc yêu cầu bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Công H1 phải trả số tiền 1.200.000.000 đồng và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.

4. Về án phí:

Án phí dân sự sơ thẩm:

– Bị đơn bà Trần Thị Thanh H2 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự không có giá ngạch. Nguyên đơn bà Phạm Thị H và ông Nguyễn Công H1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được nhận lại số tiền 600.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai lần lượt số 0004857 và số 0004854 ngày 25 tháng 9 năm 2019  tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

– Án phí dân sự sơ thẩm khi giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn bà Trần Thị Thanh H2 được xử lý khi vụ án được TAND thành phố Buôn Ma Thuột thụ lý giải quyết lại theo thu tục chung.

Án phí dân sự phúc thẩm:

Lê Thị Thanh H3 là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Trần Thị Thanh H2 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được nhận lại số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí mà bà H3 đã nộp theo biên lai số 0021191 ngày 25/8/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật dân sự năm 2015: Điều 166

– Bộ luật tố tụng dân sự 2015: khoản 3 Điều 308, Điều 310

– Luật Thi hành án Dân sự: Điều 2, 6,7,7a,7b,9 và Điều 30

– Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Khoản 3 Điều 29

 

 8. Bản án số 260-2022-DS-PT Ngày 26.12.2022 của TAND tỉnh Đắk Lắk – Tranh chấp kiện đòi nhà, đất cho thuê và đòi tài sản
9.     Bản án số 314/2022/DS-PT Ngày 16/8/2022 của TAND TP. Hà Nội  

Bản án số 314/2022/DS-PT Ngày 16/8/2022 của TAND TP. Hà Nội về Tranh chấp hợp đồng thuê địa điểm kinh doanh

Thông tin chung

– Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

– Cấp xét xử: Phúc thẩm

– Loại vụ/việc: Dân sự

– Tòa án xét xử: TAND TP. Hà Nội

– Áp dụng án lệ: Không

– Thông tin về vụ/việc: Sửa bản án dân sự sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ngày 01/01/2017 CT HM1 và bà NTH4 đã ký hợp đồng số 23/HĐ-CTHM về việc cho bà Hằng thuê vị trí lô số G07 dãy nhà G, có diện tích 6,63m2, giá thuê là 60.000đ/m2/tháng trong chợ Sáng ĐM5 để kinh doanh, buôn bán. Ngoài ra còn thỏa thuận mức thu phí công tác vệ sinh môi trường là 60.000đồng/tháng/lô. Hợp đồng có thời hạn 06 tháng từ ngày 01/01/2017 đến hết ngày 30/06/2017. Mức giá thuê MBKD được công ty áp dụng theo quyết định số 225/QĐ – UBND ngày 15/01/2013 của UBND huyện Từ Liêm: Loại 1 = 60.000đ/m2/tháng, Loại 2 = 55.000đ/m2/tháng, Loại 3 = 50.000đ/m2/tháng. Tại hợp đồng này hai bên đã thực hiện xong, bà Hằng đã thanh toán đầy đủ tiền thuê địa điểm kinh doanh đến hết ngày 30/06/2017 cho công ty.

Kể từ ngày 01/07/2017 đến nay, bà NTH4 không thực hiện ký hợp đồng thuê địa điểm kinh doanh, không nộp tiền sử dụng mặt bằng kinh doanh nhưng hằng ngày vẫn chiếm giữ mặt bằng để kinh doanh buôn bán. Phí công tác vệ sinh môi trường được CT HM1 phục vụ từ 01/07/2017 đến hết năm 2019 bà Hằng cũng không thanh toán. Lý do: Kỳ thuê đất 5 năm lần đầu, giai đoạn 2011-2016 hàng năm công ty phải nộp tiền thuê đất cho nhà nước với số tiền là 232.829.208 đồng/năm. Kỳ thuê đất 5 năm tiếp theo giai đoạn 2016-2021 nhà nước điều chỉnh tiền thuê đất, số tiền thuê đất công ty phải nộp tăng lên là 589.764.000 đồng/năm.

Ngày 31/12/2016, UBND thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 56/2016/QĐ-UBND về việc ban hành giá dịch vụ sử dụng diện tích bán hàng tại chợ trên địa bàn thành phố Hà Nội. Theo đó, CT HM1 được phép xây dựng mức giá thuê mặt bằng kinh doanh tối đa là 300.000đ/m2/tháng. Căn cứ quyết định 56/2016/QĐ-UBND, năm 2017 CT HM1 đã xây dựng phương án giá thuê mặt bằng kinh doanh tại chợ theo Thông tư 25/2014/TT-BTC ngày 17/02/2014 của Bộ tài chính. Đơn giá tiền thuê đất mới áp dụng từ    01/07/2017 là: Loại 1 = 120.000đ/m2/tháng, Loại   2=110.000đ/m2/tháng, Loại 3 = 100.000đ/m2/tháng.

Nay CT HM1 khởi kiện bà NTH4, yêu cầu Tòa án giải quyết nội dung sau:

– Buộc bà Nguyễn  Thị Hằng phải trả lại mặt bằng kinh doanh đang sử dụng trong chợ Sáng cho CT HM1.

– Yêu cầu bà NTH4 bồi thường thiệt hại cho CT HM1 do việc sử dụng mặt bằng kinh doanh mà không nộp tiền kể từ ngày 01/01/2017 đến khi xét xử. Số tiền bồi thường tính theo đơn giá tiền thuê mặt bằng kinh doanh: Loại 1 = 75.000đ/m2/tháng và bồi thường thiệt hại cho CT HM1 do việc không thanh toán tiền phí công tác vệ sinh môi trường công ty đã phục vụ từ 01/07/2017 đến 31/12/2019, bồi thường theo số tiền: 60.000đ/hộ/tháng. Cụ thể số tiền bồi thường tạm tính đến hết 30/6/2021:

+ Bồi thường tiền mặt bằng kinh doanh lô số G7 từ 01/7/2017 đến 30/06/2021 là (6,63m2 x 75.000đ/m2/tháng) x 48 tháng = 23.868.000 đồng

+ Bồi thường phí công tác vệ sinh môi trường từ 01/7/2017 đến 31/12/2019 là: 60.000đ/tháng x 30 tháng = 1.800.000 đồng

Tổng số tiền bà Hằng phải bồi thường cho CT HM1 là: 25.668.000 đồng (Hai mươi  lăm triệu sáu trăm sáu mươi tám nghìn đồng).

Toà án sơ thẩm tuyên: 

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của CT HM1 đối với bà NTH4, về việc Tranh chấp Hợp đồng thuê địa điểm kinh doanh giữa: CT HM1 và bà NTH4, tại Lô G7 của Chợ Sáng, phường ĐM5, quận NTL6, thành phố Hà Nội.

Hợp đồng thuê địa điểm kinh doanh  số 23 tại Lô G7 Chợ Sáng ĐM5 giữa CT HM1 và bà NTH4 hết hạn từ ngày 01/7/2017.

2. Buộc bà NTH4 phải trả lại địa điểm kinh doanh Lô số G7, diện tích 6,630m2 tại Chợ Sáng ĐM5 cho CT HM1.

3. Bà NTH4 phải có nghĩa vụ thanh toán tiền sử dụng diện tích kinh doanh Lô G7: Cụ thể số tiền bồi thường mặt bằng kinh doanh lô số G7 từ 01/7/2017 đến 31/03/2022 là (6,63m2 x 75.000đ/m2/tháng) x 57 tháng = 28.343.250 đồng; từ 01/4/2022 đến 29/04/2022 là (6,63m2 x 75.000đ/m2/tháng x 28 ngày =  464.100 đồng. Tổng là 28.807.350 đồng.

Bồi thường phí công tác vệ sinh môi trường từ 01/7/2017 đến 31/12/2019 là: 60.000đ/tháng x 30 tháng = 1.800.000 đồng.

Tổng số tiền bà Hằng phải bồi thường cho CT HM1 là: 30.607.350 đồng (Ba mươi triệu, sáu trăm linh bảy nghìn ba trăm năm mươi đồng).

Nhận định của Tòa Phúc Thẩm

[1]. Về hình thức: Bị đơn kháng cáo trong hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo, về hình thức là hợp lệ. Tại phiên tòa phúc thẩm bà Hằng nhất trí ủy quyền cho ông LĐM7 và bà NTC8.

Tòa án cấp sơ thẩm đã thu thập đầy đủ tài liệu chứng cứ và đưa những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia vụ án đầy đủ.

[2]. Về nội dung: Xét kháng cáo của bà NTH4, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Căn cứ vào Quyết định số 1385/QĐ-UBND ngày 1/3/2011 của UBND thành phố Hà Nội, Hợp đồng thuê đất số 136/HĐTĐ ngày 05/9/2011 giữa CT HM1 với Sở Tài nguyên Môi trường, Giấy chứng nhận QSDĐ số: BI486631 ngày 17/8/2012, Công văn số: 3533/UBND-KT ngày 29/12/2021 của UBND quận

NTL6 và các văn bản, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để xác định: Nguyên đơn là CT HM1 (gọi tắt là CT HM1) là doanh nghiệp quản lý, kinh doanh khai thác Chợ Sáng ĐM5 theo quy định tại Nghị định số: 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính phủ (được sửa đổi, bổ sung theo nghị định số 114/2009/NĐ-CP ngày 23/12/2009 của Chính phủ). CT HM1 đã hoàn trả 100% vốn đầu tư ban đầu cho ngân sách Nhà Nước và nộp tiền thuê đất hàng năm theo quy định. Do vậy Chợ Sáng ĐM5 được xác định là loại chợ được đầu tư bằng nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà Nước.

Ngày 01/01/2017 CT HM1 và bà NTH4 đã ký hợp đồng số 23/HĐ-CTHM về việc cho bà Hằng thuê vị trí lô số G07 dãy nhà G trong chợ Sáng ĐM5 để kinh doanh, buôn bán. Hợp đồng có thời hạn 06 tháng từ ngày 01/01/2017 đến hết ngày 30/06/2017. Mức giá thuê MBKD được công ty áp dụng theo quyết định số

225/QĐ – UBND ngày 15/01/2013 của UBND huyện Từ Liêm: Loại 1:

60.000đ/m2/tháng, Loại 2: 55.000đ/m2/tháng, Loại 3: 50.000đ/m2/tháng. Tại hợp đồng này hai bên đã thực hiện xong, bà Hằng đã thanh toán đầy đủ tiền thuê địa điểm kinh doanh đến hết ngày 30/06/2017 cho công ty.

Về nội dung và hình thức hợp đồng nêu trên phù hợp với các quy định của pháp luật nên có hiệu lực.

Ngày 07/6/2017 nguyên đơn đã xây dựng phương án về việc thu giá dịch vụ sử dụng diện tích bán hàng và ngày 26/6/2017 trước khi hết hạn hợp đồng, nguyên đơn đã ra Thông báo thanh lý Hợp đồng và quyết định ban hành giá dịch vụ sử dụng diện tích bán hàng tại Chợ Sáng ĐM5 để làm cơ sở ký hợp đồng mới với mức giá là: Loại 1: 120.000đồng/m2/tháng, loại 2: 110.000đồng/m2/tháng, loại 3: 100.000đồng/m2/tháng. Phương án và quyết định ban hành mức giá nêu trên đã được công khai với các hộ kinh doanh tại Chợ Sáng để làm cơ sở ký hợp đồng mới là phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 2 quyết định số: 56/2016/QĐ-UBND ngày 31/12/2016 của UBND thành phố Hà Nội về việc ban hành giá dịch vụ sử dụng diện tích bán hàng tại chợ trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Tuy nhiên, kể từ ngày 01/7/2017, bà Hằng không trả tiền thuê mặt bằng kinh doanh, các bên không gia hạn Hợp đồng. CT HM1 yêu cầu bà Hằng phải trả lại mặt bằng đã thuê là có căn cứ, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận buộc bà Hằng phải trả lại CT HM1 mặt bằng kinh doanh tại Chợ Sáng ĐM5, Lô số G7 (loại 1) diện tích 6,630m2 là phù hợp quy định của pháp luật.

Xét yêu cầu bồi thường thiệt hại của CT HM1 do việc bà Hằng sử dụng mặt bằng kinh doanh Lô số G7 (loại 1) diện tích 6,630m2 không trả tiền kể từ ngày 01/7/2017 đến ngày xét xử, Hội đồng xét xử thấy: Sau khi hết hạn thanh toán theo hợp đồng, từ ngày 01/7/2017 đến nay, bà Hằng vẫn tiếp tục quản lý, sử dụng diện tích kinh doanh tại Chợ Sáng ĐM5 nhưng không trả tiền thuê mặt bằng và tiền vệ sinh môi trường cho CT HM1, nên CT HM1 yêu cầu bà Hằng phải bồi thường thiệt hại tương đương với tiền thuê mặt bằng lô số: G7 từ 01/7/2017 đến 29/4/2022 là (6,63m2 x 75.000đ/m2/tháng) x 57 tháng = 28.343.250 đồng; từ 01/4/2022 đến 29/04/2022 là (6,63m2 x 75.000đ/m2/tháng x 28 ngày = 464.100 đồng. Tổng là 28.807.350 đồng, đã được Nguyên đơn xây dựng phương án và công khai đến các hộ kinh doanh phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 2 của Quyết định số: 56/2016/QĐ-UBND ngày 31/12/2016 của UBND TP Hà Nội nên buộc bị đơn phải thanh toán tiền bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thuê mặt bằng kinh doanh như yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn là có căn cứ.

Về tiền dịch vụ vệ sinh môi trường, lệ phí chợ: Bị đơn đã sử dụng lô số G7 mặt bằng kinh doanh tại chợ Sáng nhưng chưa thanh toán dịch vụ vệ sinh môi trường, nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán theo mức giá cũ là: 60.000 đồng/tháng/lô. Xét thấy, mức giá này, hai bên đã thực hiện suốt quá trình thực hiện Hợp đồng cũ, quá trình giải quyết vụ án, bị đơn không có ý kiến với mức giá nêu trên, do vậy, cần buộc bị đơn thanh toán tiền dịch vụ vệ sinh môi trường do sử dụng Lô số G7 từ 01/7/2017 đến 31/12/2019 là: 60.000đ/tháng x 30 tháng = 1.800.000 đồng.

Tổng số tiền bà Hằng phải bồi thường cho CT HM1 là: 30.607.350  đồng (Ba mươi triệu, sáu trăm linh bảy nghìn ba trăm năm mươi đồng).

-Bị đơn kháng cáo đề nghị buộc Công ty TNHH đầu tư thương mại Hoa Mai bù trừ thời gian 20 tháng dừng kinh doanh trái pháp luật gây thiệt hại cho hộ bà Hằng và do Công ty tạm ngừng kinh doanh nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu về các khoản tiền mà Công ty yêu cầu bà Hằng phải trả.

Xét thấy: Kể từ ngày 01/7/2017, bà Hằng không trả tiền thuê mặt bằng kinh doanh, các bên không gia hạn Hợp đồng, nhưng bà Hằng vẫn chiếm dụng mặt bằng kinh doanh Lô số  G7 (loại 1) diện tích 6,630m2.

Ngày 10/3/2019, CT HM1 có Thông báo số 107 về việc dừng hoạt động kinh doanh để cải tạo, sửa chữa chợ trong thời hạn 35 ngày từ ngày 23/3/2019 đến ngày 29/4/2019. Yêu cầu tất cả các hộ kinh doanh trong chợ thực hiện và di chuyển toàn bộ hàng hóa ra khỏi chợ trước ngày 22/3/2019. Xét thấy, việc CT HM1 có thông báo trên nhưng các hộ kinh doanh không thực hiện theo thông báo của công ty mà vẫn tiếp tục kinh doanh.

Ngày 19/6/2019, Phòng ĐKKD – Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội có giấy xác nhận về việc CT HM1 tạm ngừng kinh doanh 1 năm từ ngày 29/6/2019 đến ngày 28/6/2020. Tuy nhiên đến 08/9/2019, CT HM1 hoạt động trở lại theo Giấy xác nhận về việc doanh nghiệp đăng kí quay trở lại hoạt động trước thời hạn ngày 29/8/2019 của phòng ĐKKD. Xét thấy: Trong thời gian từ ngày 29/6/2019 đến hết ngày 08/9/2019, bà Hằng vẫn chiếm dụng mặt bằng kinh doanh tại Lô A29 Chợ Sáng ĐM5 khiến CT HM1 không thực hiện việc khai thác, kinh doanh đối với mặt bằng này được, CT HM1 vẫn phải có nghĩa vụ thanh toán các khoản thuế liên quan đến Chợ Sáng cho nhà nước trong thời gian tạm ngừng kinh doanh và thực tế trong thời gian này CT HM1 vẫn mở cửa chợ, các hộ kinh doanh tại chợ trong đó có hộ kinh doanh bà Hằng vẫn bán hàng, do đó bà Hằng có trách nhiệm bồi thường cho CT HM1 số tiền tương đương giá thuê mặt bằng trong thời gian tạm ngừng kinh doanh này. Đối với tiền công tác vệ sinh môi trường: Thời gian từ ngày 29/6/2019 đến hết ngày 08/9/2019, CT HM1 tạm ngừng kinh doanh nhưng vẫn phải đóng các loại phí liên quan và thực hiện công tác vệ sinh môi trường ở Chợ Sáng ĐM5, do đó bà Hằng có trách nhiệm bồi thường cho CT HM1 tiền công tác vệ sinh môi trường trong thời gian từ ngày 29/6/2019 đến hết ngày 08/9/2019. Do vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo đề nghị buộc Công ty TNHH đầu tư thương mại Hoa Mai bù trừ thời gian 20 tháng dừng kinh doanh trái pháp luật gây thiệt hại cho hộ bà Hằng.

Về nội dung CT HM1 vi phạm qui định về đấu thầu và bán đấu giá tài sản, CT HM1 vi phạm trong lĩnh vực xây dựng, yêu cầu CT HM1 trả lại bà 4.120.000đ thu phí vệ sinh vượt mức qui định (từ tháng 01/2009- 07/2017), nhận thấy: Những nội dung này không nằm trong yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Những nội dung này được xác định là yêu cầu phản tố, quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, do bà Hằng có đơn phản tố sau thời điểm Tòa án hòa giải, tiếp cận công khai chứng cứ nên bản án sơ thẩm căn cứ Điều 200 BLTTDS không chấp nhận đơn phản tố của bà Hằng là đúng qui định của pháp luật. Bị đơn có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét yêu cầu của mình hoặc khởi kiện yêu cầu giải quyết trong vụ án khác tại Toà án có thẩm quyền theo đúng quy định pháp luật. Vì vậy, tại cấp phúc thẩm không có căn cứ để xem xét giải quyết nội dung kháng cáo này.

Về nội dung Tòa án chưa thu thập đủ tài liệu chứng cứ để có căn cứ giải quyết vụ án, nhận thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã thu thập đầy đủ tài liệu để có căn cứ giải quyết vụ án theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, vì vậy không có căn cứ chấp nhận nội dung kháng cáo này của bà Hằng.

Về đề nghị xem xét hành vi vi phạm tố tụng của bà Phan Thị Kim Thanh không có văn bản thông báo đơn phản tố: Xét thấy, ngày 11/3/2022 Tòa án nhân dân quận NTL6 nhận được đơn phản tố đề ngày 10/3/2022 của bị đơn là bà NTH4, người đại diện theo ủy quyền là ông LĐM7 và bà NTC8. Tài liệu có trong hồ sơ thể hiện, ngày 24/01/2022 Tòa án nhân dân quận NTL6 đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Đến ngày 11/3/2022 Tòa án nhận được đơn phản tố của bà Hằng đề ngày 10/3/2022. Theo khoản 3 Điều 200 của Bộ luật tố tụng dân sự về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn: “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải”. Như vậy đơn phản tố của bà Hằng làm sau khi Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Hằng là có căn cứ.

Nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm có căn cứ hoàn toàn phù hợp quy định của pháp luật. Kháng cáo của bà NTH4 không có căn cứ nên không chấp nhận.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự theo quy định của pháp luật. Căn cứ quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và theo Điều 2 Luật Người Cao tuổi năm 2009 thì bà NTH4 là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm. Do vậy, sửa bản án dân sự sơ thẩm về phần án phí của bà Hằng.

Toà án phúc thẩm tuyên:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của CT HM1 đối với bà NTH4, về việc Tranh chấp Hợp đồng thuê địa điểm kinh doanh giữa CT HM1 và bà NTH4, tại Lô G7 của Chợ Sáng, phường ĐM5, quận NTL6, thành phố Hà Nội.

Hợp đồng thuê địa điểm kinh doanh số 23 tại Lô G7 Chợ Sáng ĐM5 giữa CT HM1 và bà NTH4 hết hạn từ ngày 01/7/2017.

2. Buộc bà NTH4 phải trả lại địa điểm kinh doanh Lô số G7, diện tích 6,630m2 tại Chợ Sáng ĐM5 cho CT HM1.

3. Bà NTH4 phải có nghĩa vụ thanh toán tiền sử dụng diện tích kinh doanh Lô G7 : Cụ thể số tiền bồi thường mặt bằng kinh doanh lô số G7 từ 01/7/2017 đến 31/03/2022 là (6,63m2 x 75.000đ/m2/tháng) x 57 tháng = 28.343.250 đồng; từ 01/4/2022 đến 29/04/2022 là (6,63m2 x 75.000đ/m2/tháng x 28 ngày =  464.100 đồng. Tổng là 28.807.350 đồng. Bồi thường phí công tác vệ sinh môi trường từ 01/7/2017 đến 31/12/2019 là: 60.000đ/tháng x 30 tháng = 1.800.000 đồng.

Tổng số tiền bà Hằng phải bồi thường cho CT HM1 là: 30.607.350 đồng (Ba mươi triệu, sáu trăm linh bảy nghìn ba trăm năm mươi đồng).

4. Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

5. Về án phí: Bà NTH4 được miễn án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả lại bà Hằng số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp tại Biên lai số 0034356 ngày 24/5/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự quận NTL6, thành phố Hà Nội.

Hoàn trả CT HM1 số tiền tạm ứng án phí 642.000đ đã nộp theo biên lai số AA/2020/0033814 ngày 19/7/2021 của Chi cục thi hành án dân sự quận NTL6. (Kèm theo Bản án là sơ đồ phác họa vị trí Lô số G7 và ki ốt tầng một nhà điều hành tại Chợ Sáng ĐM5).

Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật dân sự năm 2015:

– Bộ luật tố tụng dân sự 2015:

– Luật Thi hành án Dân sự: Điều 2, 6,7,7a,7b,9 và Điều 30

– Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án

 9. Bản án số 314-2022-DS-PT Ngày 16.08.2022 của TAND TP. Hà Nội – Tranh chấp hợp đồng thuê địa điểm kinh doanh
10.  Bản án số 176/2022/DS-PT Ngày 29/9/2022 của TAND tỉnh Bình Định  

Bản án số 176/2022/DS-PT Ngày 29/9/2022 của TAND tỉnh Bình Định về Tranh chấp chuộc lại tài sản đã bán và tranh chấp hợp đồng thuê nhà

Thông tin chung

– Quan hệ pháp luật:Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

– Cấp xét xử:Phúc thẩm

– Loại vụ/việc:Dân sự

– Tòa án xét xử:TAND tỉnh Bình Định

– Áp dụng án lệ: Không

– Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn

Tóm tắt nội dung vụ án:

Giữa bà Trần Thị Th (Trần Th) với bà Nguyễn Thị Kim Th (Kim Th) có quan hệ làm ăn với  nhau. Trước năm 2014 trong quá trình làm ăn bà Trần Th có vay của bà Kim Th một số tiền để kinh doanh và đáo hạn ngân hàng. Hai bên chốt nợ, bà Trần Th nợ bà Kim  Th 2,5 tỷ đồng. Do bà Kim Th nợ tiền bà G nên các bên thỏa thuận cấn trừ nợ thành bà Trần Thị Th nợ bà Nguyễn Thị G; theo đó, bà Trần Th có nghĩa vụ trả cho bà G 2,5 tỷ đồng. Sau đó, bà G và bà Trần Th thỏa  thuận bà Th chuyển nhượng nhà, đất tại số 66 C, thành phố Q của vợ chồng  bà Trần Th cho bà G để trừ nợ. Tại thời điểm này nhà và đất của bà Trần Th đang thế chấp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Q  – Phòng giao dịch T để bảo đảm khoản vay 3.500.000.000 đồng nên hai bên  thỏa thuận bà G nhận chuyển nhượng nhà, đất tại số 66 C và có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng cả gốc và lãi là 3.558.459.772 đồng, số tiền thanh toán  còn lại được trừ vào số tiền 2,5 tỷ đồng mà bà Trần Th nợ bà G. Hai bên thỏa thuận  giá chuyển nhượng nhà là 6.000.000.000 đồng.

Ngày 28/11/2014 tại Văn phòng công chứng Th, thành phố Q, hai bên  đã ký Văn bản thỏa thuận với nội dung ông Đào Văn C và bà Trần Thị Th chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị G quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền  với đất tại số 66 C, thành phố Q, tỉnh Bình Định thông qua ủy quyền cho Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Q – Phòng  giao dịch T đứng tên chuyển nhượng, giá chuyển nhượng là 6 tỷ đồng. Bà G  có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Q – Phòng giao dịch T số tiền 3.558.459.772 đồng, còn lại 2.441.540.228 đồng trừ vào số tiền mà bà Th nợ bà G. Tại Điều 3 của Văn bản thỏa thuận có nội dung  ông Đào Văn C và bà Trần Thị Th được quyền chuộc lại tài sản trong thời hạn 02 năm, giá chuộc lại là 5.500.000.000 đồng; quá thời hạn hai năm kể từ ngày  28/11/2014, ông Đào Văn C và bà Trần Thị Th không chuộc lại tài sản thì bà  Nguyễn Thị G được sở hữu vĩnh viễn tài sản trên.

Ngày 28/10/2015, tại Văn phòng công chứng Th, bà Trần Thị Th ký  hợp đồng thuê lại nhà tại số 66 C, thành phố Q với bà Nguyễn Thị G, giá thuê  8.340.000 đồng/tháng. Thời hạn thuê nhà tính từ ngày 28/11/2014 đến ngày  28/11/2016. Trong thời hạn thuê nhà bà Th đã trả tiền thuê nhà đầy đủ và đã  trả đến tháng 8/2017.

Gần đến hạn chuộc lại tài sản, khoảng tháng 9/2016 bà Th có đến nhà  bà G đặt vấn đề với bà Gái để chuộc lại ngôi nhà 66 C, thành phố Q như đã  thỏa thuận thì bà G nói với bà phải chuộc lại với giá 6 tỷ đồng cộng thêm 02  năm tiền lãi nữa thì bà Th không đồng ý. Đến giữa tháng 9/2016 bà Th có gọi điện bà G nhiều lần để làm thủ tục  chuộc lại nhà theo Văn bản thỏa thuận ngày 28/11/2014 nhưng bà G lấy lý do để kéo dài thời hạn nhiều lần.

Bà G lừa bà cho qua ngày cuối cùng của thời hạn chuộc nhà khoảng  ngày 02 – 03/12/2016. bà G gọi bà Th đến Văn phòng Công Chứng Th thỏa  thuận chuộc lại nhà và bà G đòi cho chuộc lại nhà với giá 6.000.000.000 đồng và tiền lãi 02 năm  nhưng bà Th không đồng ý, vì để giải quyết cho xong việc nên bà có nói với  bà G thương lượng chuộc lại nhà 5.700.000.000 đồng nhưng bà G không  đồng ý. Như vậy bà G cố tình kéo dài thời hạn chuộc nhà là do lỗi của bà G.  Sau đó hai bên mới phát sinh tranh chấp nên bà làm khởi kiện ra Tòa vào đầu  tháng 12/2016. Nay vợ chồng bà yêu cầu được chuộc lại quyền sử dụng đất và tài sản  gắn liền với đất tại số 66 C, thành phố Q với giá 5.500.000.000 đồng (Năm tỷ năm trăm triệu đồng) theo Văn bản thỏa thuận ngày 28/11/2014 tại Văn  phòng công chứng Th.

Đối với yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị G yêu cầu vợ chồng bà Th  phải trả tiền thuê nhà từ tháng 9/2017 đến tháng 11/2020 là 325.260.000 đồng  và phải giao trả lại ngôi nhà tại 66 C, thành phố Q thì bà Th không đồng ý. Vì  hợp đồng thuê nhà đã chấm dứt. Tại phiên tòa bà Th tự nguyện hỗ trợ thêm  cho bà G 1.000.000.000 đồng ngoài số tiền chuộc lại tài sản đã bán.

Toà án sơ thẩm tuyên: 

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Th, ông Đào Văn C về yêu cầu chuộc lại tài sản đã bán.

2. Buộc bà Nguyễn Thị G cho ông Đào Văn C, bà Trần Thị Th chuộc  lại quyền sử dụng đất có diện tích 96,4m2và tài sản gắn liền với đất tại số 66  C, thuộc thửa đất số 336, tọa lạc tại tổ 10, khu vực 2, phường Ng, thành phố Q (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành AB 560084, số vào  sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H00332 do UBND thành phố Q  cấp ngày 20/3/2006 đứng tên Nguyễn Thị G) theo Văn bản thỏa thuận ngày  28/11/2014 tại Văn phòng công chứng Th, thành phố Q, tỉnh Bình Định.

3. Buộc ông Đào Văn C và bà Trần Thị Th phải có nghĩa vụ trả cho bà  Nguyễn Thị G số tiền chuộc lại tài sản là 5.500.000.000 đồng (năm tỷ năm  trăm triệu đồng).

4. Buộc bà Nguyễn Thị G phải có nghĩa vụ trả lại cho ông Đào Văn C,  bà Trần Thị Th Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành AB 560084,  số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H00332 do UBND thành phố Q cấp ngày 20/3/2006 đứng tên Nguyễn Thị G để ông Đào Văn C và bà  Trần Thị Th nhận thực hiện việc thay đổi đăng ký tên người sử dụng theo quy định của pháp luật.

5. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Trần Thị Th đồng ý hỗ trợ thêm cho  bà Nguyễn Thị G 1.000.000.000 đồng ngoài số tiền chuộc lại tài sản.

6. Chấm dứt hợp đồng thuê nhà ngày 28/10/2015 giữa bà Nguyễn Thị G và bà Trần Thị Th.

7. Bác yêu cầu của bà Nguyễn Thị G đòi ông Đào Văn C, bà Trần Thị Th giao trả nhà 66 C để xác lập quyền sở hữu vĩnh viễn do nguyên đơn vi  phạm thời hạn chuộc lại tài sản theo Văn bản thỏa thuận ngày 28/11/2014.

8.     Bác yêu cầu của bà Nguyễn Thị G đòi ông Đào Văn C, bà Trần Thị Th trả 325.260.000 đồng tiền thuê nhà.

Nhận định của Tòa Phúc Thẩm

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền  của bà Trần Thị Th là ông Nguyễn Huy H rút một phần nội dung kháng cáo  của bà Th yêu cầu bà G phải trả 56.750.000 đồng tiền tạm ứng án phí. Do đó,  Tòa án căn cứ vào khoản 3 Điều 284 Bộ luật Tố tụng Dân sự đình chỉ xét xử  phúc thẩm đối với phần nội dung kháng cáo bà Th rút.

[2] Xét nội dung kháng cáo còn lại của bà Trần Thị Th, thấy rằng:

[2.1] Tại văn bản thỏa thuận ngày 28/11/2014, bà G và vợ chồng ông C  bà Th thỏa thuận ông C, bà Th được quyền chuộc lại tài sản là quyền sử dụng  đất và tài sản gắn liền với đất tại số 66 đường C thuộc thửa số 336, tổ 10, khu  vực 2, phường Ng, thành phố Q trong thời hạn 02 năm kể từ ngày 28/11/2014;  giá trị chuộc lại là 5,5 tỷ đồng. Văn bản thỏa thuận này được lập trên cơ sở tự  nguyện, không trái pháp luật nên có hiệu lực.

Như vậy, giữa vợ chồng ông C bà Th với bà G đã thỏa thuận giá chuộc  lại tài sản. Căn cứ vào Điều 462 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì giá chuộc lại tài  sản nói trên là 5,5 tỷ đồng theo như giá đã thỏa thuận tại Điều 3 văn bản thỏa  thuận ngày 28/11/2014. Tại phiên tòa phúc thẩm ông B là người đại diện theo  ủy quyền của bà G chấp nhận đồng ý bà Th không hỗ trợ thêm cho bà G  1.000.000.000 đồng ngoài số tiền chuộc đã thỏa thuận là 5.500.000.000 đồng.  Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung kháng cáo của bà Th.

[3] Đối với nội dung kháng cáo của bà Nguyễn Thị G, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[3.1] Bà Th và bà G đều khai thống nhất là bà Th có thông báo với bà G  về việc chuộc lại tài sản là nhà và đất theo như biên bản thỏa thuận ngày  28/11/2014 nhưng hai bên khai không thống nhất thời gian bà Th thông báo  chuộc tài sản với bà G. Bà Th cho rằng bà Th thông báo chuộc lại nhà, đất với  bà G trước ngày 28/11/2016, còn bà G cho rằng khi đã quá thời hạn chuộc  nhà, đất thì bà Th mới gặp bà G để trao đổi việc chuộc lại tài sản nên đã vi  phạm thời hạn chuộc lại tài sản.

Căn cứ các tài liệu có tại hồ sơ và tranh luận tại phiên tòa hôm nay  không thể hiện rõ nguyên đơn có thông báo trước cho bị đơn ý định chuộc lại  tài sản trong một thời gian hợp lý. Các tài liệu nhật ký điện thoại mà bà Th  cung cấp không thể hiện nội dung về việc chuộc lại tài sản. Đối với việc bà  Th khai có nhờ bà B gọi cho bà G để chuộc lại nhà, nhận thấy lời khai bà B  tại biên bản xác minh ngày 05/9/2017 (BL120) và lời khai tại biên bản đối  chất ngày 14/11/2017 (BL 108,110) là không thống nhất. Mặc khác, tại phiên  tòa sơ thẩm lần thứ hai bà Th có cung cấp “Đơn đề nghị ngày” 15/11/2016  của bà Th gởi đến UBND phường Đ, thành phố Q với nội dung đề nghị giải  quyết cho bà Th chuộc lại nhà theo văn bản thỏa thuận ngày 28/11/2014. Đơn  này không có vào sổ, không có chữ ký xử lý đơn của người có thẩm quyền.  Mặc khác, tại biên bản xác minh ngày 12/7/2022 ông Cao Quang T – Cán bộ  Tư Pháp khai ông là người trực tiếp nhận “Đơn đề nghị” ngày 15/11/2016 của bà Th gởi nhưng vì nội dung đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết của  UBND phường nên ông hướng dẫn bà Th khởi kiện tại Tòa án. Trong khi đó  ông T khai: “… tại dấu nhận đơn của phường chỉ ghi ngày tháng năm mà  không ghi số vì đối với trường hợp đơn thư của công dân gửi đến phường thì  bộ phận tiếp nhận đơn trực tiếp nhận, sau đó chuyển cho lãnh đạo phê duyệt  rồi mới chuyển lại cho bộ phận tiếp nhận đơn đống dấu và chỉ ghi ngày tháng  năm nhận đơn, sau đó mới chuyển đơn cho bộ phận chuyên môn giải quyết  (nếu đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND phường Đ)”. Như vậy,  “Đơn đề nghị” của bà Th không thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND  phường nhưng UBND phường Đ có đơn của bà Th để cung cấp cho Tòa án.  Hơn nữa, ngay từ đầu khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án ở giai  đoạn sơ thẩm và phúc thẩm lần thứ nhất bà Th không có cung cấp chứng cứ là  có làm đơn yêu cầu UBND phường Đ, thành phố Q giải quyết việc chuộc lại  nhà, đất giữa bà Th với bà G nên việc bà Th cho rằng có làm đơn đề nghị gởi  đến UBND phường Đ giải quyết trong thời gian chuộc lại nhà. Bà Th còn  khai là có báo cáo miệng với ông Mang Đức T – Trưởng Công an thành phố Q  đề nghị giải quyết chuộc lại nhà giữa vợ chồng bà Th với bà G nhưng không  có căn cứ. Từ những nhận định trên có đủ căn cứ xác định bà Th không thông  báo trước cho bà G ý định chuộc nhà trong một thời gian hợp lý.

[3.2] Đối với nội dung kháng cáo yêu cầu vợ chồng ông C bà Th phải  trả tiền thuê nhà cho bà G là 381.800.000 đồng, thấy rằng: Căn cứ hợp đồng  thuê nhà ngày 28/10/2015 giữa bà Nguyễn Thị G và bà Trần Thị Th thì thời  hạn thuê nhà từ ngày 28/11/2014 đến này 28/11/2016. Như vậy thời gian thuê  nhà đã hết, trong thời gian thuê nhà bà Th đã trả tiền đầy đủ cho bà G đúng  như trong hợp đồng. Như vậy, việc bà G yêu cầu bà Th phải trả tiền thuê nhà  là không có căn cứ nên án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của bà G là  có cơ sở.

[3.3] Từ những phân tích trên cho thấy án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu  khởi kiện của nguyên đơn là không có căn cứ. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bà Nguyễn Thị G đối với nội dung không đồng  ý cho vợ chồng ông Đào Văn C, bà Trần Thị Th chuộc lại nhà 66 C, thành  phố Q; không chấp nhận nội dung kháng cáo yêu cầu vợ chồng ông C bà Th  phải trả tiền thê nhà cho bà G là 381.800.000 đồng. Chấp nhận một phần  kháng cáo của nguyên đơn về việc không đồng ý hỗ trợ thêm cho bà G  1.000.000.000 đồng ngoài số tiền chuộc 5.500.000.000.000 đồng, sửa Bản án  sơ thẩm.

[4] Về chi phí tố tụng và án phí:

[4.1] Chi phí định giá: 9.000.000 đồng bà Trần Thị Th và ông Đào Văn  C phải chịu. Bà Nguyễn Thị G đã tạm ứng 9.000.000 đồng nên buộc bà Th và  ông C phải trả lại cho bà G 9.000.000 đồng.

[4.2] Án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà  Th, ông C phải liên đới chịu 113.500.000 đồng đối với yêu cầu của bà Th,  ông C không được chấp nhận nhưng được trừ 56.750.000 đồng tiền tạm ứng  án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0002765 ngày 16/7/2021  của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Q. Bà Th ông C còn phải nộp  56.750.000 đồng. Bà G phải chịu 16.263.000 đồng đối với yêu cầu phản tố của bà G không được chấp nhận nhưng được trừ 8.132.000 đồng tiền tạm ứng  án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0003210 ngày 15/12/2020  của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Q. Bà G còn phải nộp 8.131.000đ.

[4.3] Án phí dân sự phúc thẩm: Theo khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì  bà Th và bà Nguyễn Thị G không phải chịu án phí phúc thẩm.

Hoàn trả cho bà Trần Thị Th tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp  300.000 đồng theo biên lại thu số 0006165 ngày 28/3/2018 và 300.000 đồng  theo biên lai thu số 0002809 ngày 30/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Q.

Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị G tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp  300.000 đồng theo biên lại thu số 0006289 ngày 16/4/2018 và 300.000 đồng  theo biên lai thu số 0002810 ngày 30/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Q.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng  nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phát biểu  luận cứ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, không  chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa Bản án dân sự sơ thẩm theo hướng chấp  nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không phù hợp với nhận  định của Tòa.

[7] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến  về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo  của bị đơn, chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn, sửa bản án sơ  thẩm là không phù hợp với nhận định của Tòa.

Toà án phúc thẩm tuyên:

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với một phần nội dung kháng cáo của  bà Trần Thị Th.

2. Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Th. Chấp  nhận một phần kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị G.

3. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 220/2021/DS-ST ngày 16  tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định.  4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Th, ông Đào  Văn C về yêu cầu chuộc lại tài sản đã bán là quyền sử dụng đất có diện tích 96,4m2và tài sản gắn liền với đất tại số 66 C, thuộc thửa đất số 336, tọa lạc  tại tổ 10, khu vực 2, phường Ng, thành phố Q (theo Giấy chứng nhận quyền  sử dụng đất số phát hành AB 560084, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền  sử dụng đất H00332 do UBND thành phố Q cấp ngày 20/3/2006 đứng tên  Nguyễn Thị G) theo Văn bản thỏa thuận ngày 28/11/2014 tại Văn phòng công  chứng Th, thành phố Q, tỉnh Bình Định.

4. Chấm dứt hợp đồng thuê nhà ngày 28/10/2015 giữa bà Nguyễn Thị G và bà Trần Thị Th.

5. Buộc ông Đào Văn C, bà Trần Thị Th giao trả nhà 66 C, thành phố Q, tỉnh Bình Định cho bà Nguyễn Thị G.

6. Không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị G đòi ông Đào Văn C,  bà Trần Thị Th trả 381.800.000 đồng tiền thuê nhà.

7. Về chi phí tố tụng và án phí:

– Về chi phí định giá: 9.000.000 đồng bà Trần Thị Th và ông Đào  Văn C phải chịu. Bà Nguyễn Thị G đã tạm ứng 9.000.000đ (chín triệu đồng)  nên buộc bà Th và ông C phải trả lại cho bà Gái 9.000.000đ (chín triệu đồng).

8. Về án phí dân sự sơ thẩm:

– Bà Trần Thị Th và ông Đào Văn C phải liên đới chịu 113.500.000đ (một trăm mươi ba triệu năm trăm nghìn đồng) nhưng được trừ 56.750.000đ (năm mươi sáu triệu bảy trăm năm chục nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã  nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0002765 ngày 16/7/2021 của Chi cục  Thi hành án dân sự thành phố Q, bà Th ông C còn phải nộp 56.750.000đ (năm  mươi sáu triệu bảy trăm năm chục nghìn đồng)

– Bà Nguyễn Thị G phải chịu 16.263.000đ (mười sáu triệu hai trăm sáu  mươi ba nghìn đồng) nhưng được trừ 8.132.000đ (tám triệu một trăm ba mươi  hai nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí  số 0003210 ngày 15/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Q. Bà  G còn phải nộp 8.131.000đ (tám triệu một trăm ba mươi mốt nghìn đồng).

9. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Trần Thị Th và bà Nguyễn Thị G  không phải chịu.

– Hoàn trả cho bà Trần Thị Th tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp  300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lại thu số 0006165 ngày 28/3/2018  và 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0002809 ngày  30/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Q.

– Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị G tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp  300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lại thu số 0006289 ngày 16/4/2018  và 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0002810 ngày  30/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Q

Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật dân sự năm 2005: Điều 462;Điều 402, 462, 492, 499

– Bộ luật tố tụng dân sự 2015: khoản 3 Điều 284; khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 148, khoản 1 Điều 165

– Luật Thi hành án Dân sự: Điều 2, 6,7,9 và Điều 30

– Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Điều 26,29

 10. Bản án số 176-2022-DS-PT Ngày 29.09.2022 của TAND tỉnh Bình Định – Tranh chấp chuộc lại tài sản đã bán và tranh chấp hợp đồng thuê nhàản án số 176-2022-DS-PT Ngày 29.09.2022 của TAND tỉnh Bình Định – Tranh chấp chuộc lại tài sản đã bán và tranh chấp hợp đồng thuê nhà

 

 

 

 

KHUYẾN NGHỊ CỦA LUẬT 3S:

[1] Đây là Bài viết khái quát chung về vấn đề pháp lý mà quý Khách hàng, độc giả của Luật 3S đang quan tâm, không phải ý kiến pháp lý nhằm giải quyết trực tiếp các vấn đề pháp lý của từng Khách hàng. Do đó, bài viết này không xác lập quan hệ Khách hàng –  Luật sư, và không hình thành các nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi với quý Khách hàng.

[2] Nội dung bài viết được xây dựng dựa trên cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật có hiệu lực ngay tại thời điểm công bố thông tin, đồng thời bài viết có thể sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (nếu có). Tuy nhiên, lưu ý về hiệu lực văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài viết có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại mà mọi người đọc được bài viết này. Do đó, cần kiểm tra tính hiệu lực của văn bản pháp luật trước khi áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý của mình hoặc liên hệ Luật 3S để được tư vấn giải đáp.

[3] Để được Luật sư, chuyên gia tại Luật 3S hỗ trợ tư vấn chi tiết, chuyên sâu, giải quyết cho từng trường hợp vướng mắc pháp lý cụ thể, quý Khách hàng vui lòng liên hệ Luật 3S theo thông tin sau: Hotline: 0363.38.34.38 (Zalo/Viber/Call/SMS) hoặc Emailinfo.luat3s@gmail.com

[4] Dịch vụ pháp lý tại Luật 3S:

Tư vấn Luật | Dịch vụ pháp lý | Luật sư Riêng | Luật sư Gia đình | Luật sư Doanh nghiệp | Tranh tụng | Thành lập Công ty | Giấy phép kinh doanh | Kế toán Thuế – Kiểm toán | Bảo hiểm | Hợp đồng | Phòng pháp chế, nhân sự thuê ngoài | Đầu tư | Tài chính | Dịch vụ pháp lý khác …

Tin tức liên quan